Thứ Ba, Tháng 6 17, 2025

Hồi ký Chải đi sông ơi!

PHẦN 1: YÊN ĐỊNH – THỜI ẤU THƠ

(Cảm ơn bạn Đỗ Chung đã động viên mình viết bài. Một chút ký ức vụn vặt về tuổi thơ nơi phố huyện Yên Định bình yên).

“Về thương lại bến sông trôi
Về buồn lại đã một thời tóc xanh…

“Trong tim ai cũng có, một dòng sông bên nhà
Con sông tôi tắm mát, suốt tuổi thơ đời tôi”

Tôi sinh ra bên cạnh một dòng sông ở thị trấn Yên Định, cạnh nhà thờ có tên là Đền Thánh Quần Phương, mà chúng tôi quen gọi là nhà xứ Đông Biên. Trước sân nhà thờ có một con sông nhỏ chảy qua. Hồi bé, tôi hay theo anh trai tôi ra sông chơi. Anh tôi bơi rất giỏi, thường mang theo một cái xoong buộc vào người, vừa bơi vừa tranh thủ bắt cá, cua ven sông. Tôi hay ngồi trên bờ đợi anh tôi hoặc chạy dọc sông vì tôi còn bé chưa bơi được. Nói thế cho oai chứ thực ra là không biết bơi. Sau này đến năm 34 tuổi mới chịu đi học bơi tử tế và cuối cùng cũng đã xóa mù được môn này.

Tuổi thơ của tôi trôi qua khá yên ả nơi phố huyện. Đọng lại trong ký ức tôi là hình ảnh những buổi thánh lễ nhà thờ cuối tuần với tiếng chuông vang vọng, là những hình ảnh đèn hoa rực rỡ đêm Noel. Là vùng công giáo toàn tòng (hồi đó gia đình tôi là gia đình bên lương hiếm hoi giữa lòng xứ đạo), những ngày lễ thánh toàn bộ học sinh theo đạo tự động nghỉ học đi lễ, nhà trường cũng tạo điều kiện cho các học sinh này. Những buổi lễ thánh trong nhà thờ là cảnh tượng hoành tráng và đẹp đẽ nhất trong ký ức tuổi thơ tôi.

Nhà tôi cách nhà xứ Đông Biên khoảng 200-300m, qua một cây cầu bắc qua dòng sông. Cứ cuối tuần sẽ có phiên chợ họp ở đó, và đó là ngày chúng tôi mong chờ nhất vì mẹ sẽ mua về cho cái bánh đa vừng nướng, ít bánh cuốn hoặc bỏng gạo. Ngoài ra còn có kẹo con sâu và nhiều thứ quà bánh khác.

Bố tôi làm công an, mẹ tôi làm phát thanh viên ở đài truyền thanh huyện Hải Hậu, ngoài ra mẹ còn có nghề thợ may. Tôi vẫn nhớ những buổi bố mẹ đi làm, anh chị tôi đi học, buổi chiều tôi hay được “nhốt” ở nhà một mình hoặc với anh tôi. Tôi thường trèo lên cửa sổ, thò hai chân ra ngoài để ngắm tụi trẻ con nhà khác chơi trước cửa với ánh mắt thèm thuồng.

Lớn hơn một chút, tôi được anh tôi cho đi theo anh trong những chuyến du lịch khám phá mảnh vườn của các cơ quan trong huyện. Anh tôi rất giỏi mò, ở đâu có cây nào ăn được, cây nào có quả chín anh tôi đều biết. Anh tôi leo cây rất giỏi. Tôi nhớ nhất là một lần được ăn món nhộng ong xào nghệ do anh tôi đi bắt tổ ong mang về. Ngon tuyệt. Một cảm giác tuổi thơ mà sau này, dù có ăn đủ các đặc sản, tôi vẫn không thể quên. Đến ngày mùa, chúng tôi ra ruộng hái trộm thóc nếp về nướng lên ăn. Gạo chẳng thấy đâu nhưng chỉ toàn than trấu…nhưng chúng tôi vẫn háo hức hí hửng. Cánh đồng lúa thơm ngạt ngào mùi hương sữa, thỉnh thoảng từng đàn cào cào châu chấu bay lung tung…

Anh Trần Phong thời bé

Có hôm anh trai tôi đưa tôi đến lớp học vì nhà đều bận. Anh học trong lớp còn tôi chơi thơ thẩn ngoài hành lang. Chơi chán tôi lang thang ra đường, gặp một chú làm cùng với bố, chú bèn đưa tôi về nhà. Ra chơi anh tôi không thấy đâu…chạy đi tìm em. Nghe kể lại thì bố mẹ tôi tìm thấy anh tôi đang tìm tôi dọc bờ sông, nước mắt nước mũi tèm lem. Mẹ hay kể khi tôi vừa sinh, anh tôi một tay xách quần, một tay cầm phích nước chạy vào bệnh viện…nhìn thấy tôi mở mắt, anh kêu to “mẹ ơi, em mở mắt kìa”. Chẳng là ngày xưa mẹ sinh anh thiếu tháng, mấy ngày sau mới thèm mở mắt. Ngày xưa anh gầy nhom, giờ đã 70 kg. Chẹp. Ai mà không gặp anh ngày xưa thì không thể tưởng tượng anh tôi gầy thế nào.

Bố mẹ tôi hồi đó rất bận. Khi tôi còn nhỏ, chị tôi thường trông tôi. Chị tôi kể lại là ngày xưa, mẹ làm một cái như cái địu sau lưng để chị tôi cõng tôi đi chơi cho mẹ làm. Mẹ làm may nên rất bận, làm từ sáng đến tối không hết việc. Tối 30 tết còn có người ngồi đợi lấy hàng. Bố tôi đi trực suốt, cuối tuần mới về nghỉ. Cả ngày xoay trần xay bột cho tôi ăn rồi sáng hôm sau lại đi. Tuần sau ăn hết bột bố tôi lại về xay tiếp.

Chị tôi kể, ngày xưa chị tôi tha tôi đi khắp nơi, nhiều khi tôi không chịu ngủ, chị thì muốn chơi, chị bắt tôi nhắm mắt còn tôi thì cứ mở thao láo. Nghe kể chị em đều cười. Tôi rất thương chị tôi. Từ nhỏ đến lớn chị vất vả vì gia đình. Đến khi gia đình khá lên, công việc ổn định thì chị lại đi lấy chồng, tất bật với gia đình mới. Khi chị tôi mới đi làm, thỉnh thoảng chị lại cho tôi mười nghìn, hai mươi nghìn để đi sinh nhật bạn. Hồi chị học cấp ba là thời gian gia đình tôi gặp nhiều khó khăn, chị nói ngày xưa chị chẳng được đi đâu, chẳng có tiền đi chơi với bạn, chị tôi không muốn tôi thế…

Có lẽ hồi bé hay được anh chị cho đi chơi mà tôi cũng ham đi. Hồi năm tuổi, tôi cùng với 2 người bạn đi tít lên đầu huyện, 3 cây số là một quãng đường rất dài với lũ trẻ bọn tôi. Chúng tôi thơ thẩn dọc đường, nhặt những hạt táo và các que kem. Tôi không nhớ rõ lắm nhưng đổi các thanh que kem này sẽ được một cái kem, còn hột táo thì chúng tôi sẽ đập ra lấy hạt để ăn. Công cuộc kinh doanh kết thúc khi hai người bạn tôi được gia đình đưa về. Còn tôi thì đi bộ một mình về…khi nhìn thấy chị tôi đang chạy đi tìm tôi từ xa…tôi đã oà khóc.

Lên 5 tuổi cũng là lúc tôi đi nhà trẻ. Nhà trẻ nằm trong sân của một ngôi nhà thờ cổ. Giờ nghỉ chúng tôi thường chơi trốn tìm quanh nhà thờ hoặc thơ thẩn đếm từng ô cửa sổ bạc màu thời gian. Hồi đó tôi được làm lớp trưởng, được phát đồ chơi cho các bạn…oai ra phết. Đồ chơi là những miếng gỗ mỏng và dẹt do các bác thợ mộc cắt cho chúng tôi. Chúng tôi chơi xếp những ngôi nhà bằng gỗ…với cả sức tưởng tượng thơ mộng nhất…Tan học, chúng tôi đi dọc triền đê về nhà, ánh nắng cuối ngày trải dài trên sông, rực rỡ…

Tôi có cậu bạn tên là Cương, nhà nó bán thuốc bắc, thỉng thoảng nó hay lấy trộm đường phèn ở nhà ra cho chúng tôi ăn…cái ngọt chưa kịp thấm vào cổ đã tan trong dạ dầy…nghe đâu giờ nó đã có vợ con đề huề.

Hồi đó ngoài làm may, mẹ tôi làm phát thanh viên ở Đài phát thanh huyện. Cứ 7h tối, ăn cơm xong, chúng tôi ngồi dỏng tai lên chờ nghe giọng nói thân quen của mẹ: “đây là đài phát thanh Hải Hậu…”. Có hôm tôi còn được đưa đến đài, đứng ngoài phòng nhìn mẹ tôi qua ô cửa kính, tôi thấy mẹ tôi thật đẹp, thật oai…

Những buổi chiều bố mẹ đi vắng, anh chị đi học…tôi ngồi tỉ mẩn mang hộp cúc của mẹ ra đếm. Mẹ có nhiều loại cúc lắm…to có, nhỏ có, trắng có, đen có, sọc có, vuông có, méo có…tôi cẩn thận đếm ra từng loại, rồi chia quân chơi trận giả. Những con to được làm tướng, những con nhỏ làm quân, đen một bên, trắng một bên…tôi trở thành một vị tổng chỉ huy đầy quyền uy của những con cúc. Chơi xong, tôi lại cẩn thận cất tất cả vào một cái hộp tròn. Chờ đợi trận đánh ngày mai.

Có những lúc chán chơi cúc, tôi ngồi trên bậu cửa sổ, thò chân ra ngoài, ngắm nhìn lũ trẻ chơi ngoài đường với ánh mắt thèm thuồng, thỉnh thoảng chúng nó lại chạy lại trêu tôi…hoặc chơi ngay trước sân để tôi đỡ buồn…những Dũng, Sơn, Cương ơi, tụi mày có nhớ một thời con trẻ vô tư nơi phố huyện…

Hồi tôi còn nhỏ, bà tôi cho một con mèo, được đặt tên là Mác xim. Ai đặt tên này thì tôi không nhớ, nhưng tôi và con mèo nhanh chóng trở thành đôi bạn thân. Tối tối nó đi bắt chuột, khoảng gần sáng mò về chui vào leo lên giường cạnh tôi. Hồi đó tôi ngủ với bố mẹ trong buồng trong. Nếu không có ai mở cửa buồng cho nó vào, nó kêu gào đến lúc phải ra mở thì thôi. Khi nhà tôi chuyển nhà đi, vì kiêng nên mẹ tôi cho nhà hàng xóm. Mấy năm sau tôi mới biết, nó đã nhịn ăn, thường chạy về nhà cũ của tôi để tìm tôi…rồi nó mất tích. Cho đến giờ tôi vẫn giữ ý tưởng một ngày nào đó sẽ nuôi lại một con mèo.

Ngày gia đình tôi chuyển nhà, tôi đã khóc vì không được mang con mèo đi, khóc vì không có ai chơi cùng. Nhưng tôi không hiểu được tôi sẽ không bao giờ thuộc về nơi này nữa. Sau này quay lại, bạn bè tôi cũng không ai còn nhớ, chỉ còn là những hồi ức của tuổi thơ…

PHẦN 2: KHU PHỐ TUỔI THƠ

Năm lên 6 tuổi, do bố tôi chuyển công tác lên thành phố Nam Định, nhà tôi cũng chuyển theo. Từ đây, những câu chuyện thời niên thiếu của tôi gắn liền với thành phố Dệt thân thương.

Ngôi nhà nơi tôi chuyển đến là một căn nhà nhỏ cấp 4, khoảng 30m2 ở khu tập thể công trường K6, cạnh nhà máy Dệt Nam Định trên đường Hoàng Hoa Thám, sát chùa Vọng Cung. Khu tập thể được chia thành 3 lớp, lớp ngoài cùng quay ra phố, phía sau khu ngoài là một cái ngõ, nơi có một dãy nhà thứ hai. Dãy thứ ba úp lưng vào dãy thứ hai và có một con ngõ trước cửa có một bức tường cao ngăn khu dân cư với khu cơ quan phía sau. Các dãy nhà được kết nối với nhau bởi những con ngõ nhỏ, ngoằn nghèo. Ngôi nhà tôi nằm ở mặt đường, nhìn sang hông nhà máy Dệt, nơi có trường Bổ túc văn hóa của nhà máy.

Đó là một con phố nhỏ với 1 bên là nhà dân, một bên là nhà máy. Trong ký ức mơ hồ của một cậu bé con, đó là khu tập thể nghèo với những ngôi nhà cấp 4 lụp xụp. Cả một khu phố dài (3 lớp nhà) có một khu nhà vệ sinh chung và một vòi nước máy chung. Nhắc đến nhà vệ sinh tập thể của một thời chắc hẳn tôi không cần kể nhiều, đó là một câu chuyện dài buồn vui lẫn lộn của một thời bao cấp.

Thời đó đã có nước máy, nhưng không phải nhà nào cũng lắp đường nước riêng. Vòi nước chung vẫn là nơi sinh hoạt của lũ trẻ con mỗi chiều, chúng tôi ra đó tắm chung, cả nam lẫn nữ. Tụi con trai cởi trần mặc mỗi cái quần cộc, còn tụi con gái thì mặc nguyên quần áo để tắm. Nhà nào chưa có đường nước máy thì các chị các mẹ xách nước về nhà để tắm riêng. Tắm là một chuyện, lũ trẻ tranh nhau hứng nước và tranh thủ tạt nước nhau.

Sau khi mua nhà, năm 1987 nhà tôi sửa lại nhà và xây một khu vệ sinh riêng trong nhà. Tôi nhớ hồi đó hố xí tự hoại trong nhà chưa phổ biến ở khu tôi. Lũ trẻ con thường đi tè ngay trên vỉa hè, xuống cống nước sát mép đường cho tiện. Nhà xây 2 tầng với tầng 1 trần cao có phòng khách một cái bếp nhỏ. Theo mốt thời đó, nhà có 1 cái gác xép nơi có phòng ngủ của bố mẹ phía trong và phần nhô ra ngoài là giường ngủ của tôi. Tầng 2 mới chỉ là một căn phòng ở giữa làm phòng ngủ và phòng thờ. Phía sau là 1 cái bể nước, sau này được lợp mái tôn lên, anh em chị em chúng tôi ngủ trên bể nước và một cái bàn học nhỏ bên cạnh. Phía ngoài là sân phơi, sau này đến năm 1998 mới được xây lên làm thành một phòng ngủ rộng hơn. Phần ban công nhô ra bố tôi làm một khu đất trồng một cây hoa giấy to và một chậu bê tông trồng hoa đồng tiền đơn.

Tác giả và anh trai – thời thơ ấu

Hồi đó, nhà nào xây 2 tầng trong khu là rất oách. Hàng xóm vẫn kể với nhau rằng khi ngôi nhà 2 tầng đầu tiên trong phố được xây, tôi không biết năm nào, cứ sáng sớm ông chủ nhà lại ra tận vỉa hè hô con quét từ tầng 2 xuống tầng 1 để cho cả phố biết là nhà mình có 2 tầng. Nhà đó cách nhà tôi 3 nhà. Hồi đó các ông bố hay mặc quần đùi rộng ngồi vỉa hè uống trà, buôn chuyện buổi chiều. Ống quần rộng quá, đôi khi để lộ ra nhiều thứ làm các chị các mẹ cứ cười rúc rích.

Rồi đời sống khá hơn, các ngôi nhà tầng được xây nhiều hơn, lũ trẻ chúng tôi có thú vui đuổi nhau, chơi trốn tìm trên các mái nhà, nhảy từ sân thượng nhà nọ sang nhà kia. Ngày đó chưa có cảnh hàng rào khung sắt. Chúng tôi vô tư đi thăm nhau theo đường mái nhà. Nhiều câu chuyện yêu đương của anh chị chúng tôi cũng được bắt đầu qua con đường mái nhà này.

Khu tôi ở là khu tập thể kẹp giữa các khu cơ quan. Trước mặt là trường bổ túc Dệt, đầu phố là chùa Vọng Cung, phía sau là nhà hát ngoài trời, rồi đến bệnh viện E, nhà xác và bưu điện Nam Định. Đầu bên kia khu phố là trụ sở công an tỉnh, nơi bố tôi công tác. Khu dân cư nằm gọn trong lòng các cơ quan. Xa hơn một tí, trước cửa chùa Vọng Cung là vườn hoa Điện Biên có 3 con rồng phun nước (hồi đó chúng tôi quen gọi là vườn cảnh, mãi sau này mới biết nó có tên là vườn hoa Điện Biên). Trong vườn hoa có rạp chiếu phim xịn xò thời đó và 1 gò đống cây cối um tùm phía sau. Sau này tôi mới biết đó là khu phế tích cột cờ Nam Định. Tại thời điểm đó, khu gò đống um tùm đó gắn liền với những câu chuyện ma, những đồn đại lan truyền riêng trong đám trẻ bọn tôi.

Trường bổ túc Dệt khi đó ngoài việc dạy văn hóa còn tổ chức dậy thêm ngoại ngữ buổi tối. Lũ trẻ phố tôi có một việc quan trọng là cứ nghe tiếng trống tan trường lại rủ nhau đi “khám ngăn bàn”, tìm xem có ai để quên cái gì trong ngăn bàn như sách, bút hay không. Đó là một hoạt động quan trọng trong đời sống lũ trẻ con khi đó. Sát tường của trường là một kho lộ thiên của nhà máy Dệt, nơi tập kết rất nhiều tấm mút bọc nylon của nhà máy, không biết để làm gì. Khi phong trào đồng nát lên cao, lũ chúng tôi hay trèo rào vào bên trong, nhặt nhạnh tất cả những thứ có thể mang bán kiếm tiền: nylon, dây đồng, sắt vụn…

Nếu trường bổ túc và khu nhà máy Dệt góp phần vào thu nhập nhỏ nhoi của lũ trẻ thì khu nhà hát ngoài trời phía sau khu tập thể là sân chơi rộng lớn của chúng tôi. Khu nhà hát có sân khấu và hai phòng diễn viên hai bên cánh gà là được xây tử tế. Phía trước là khán đài ngoài trời có 1 khu có ghế bằng bê tông và một khu khán đài xây bằng gạch từ thấp lên cao, cỏ mọc um tùm vì ít có sự kiện. Đây cũng chính là nơi diễn ra phiên xử vụ án nhà máy Dệt đầu những năm 1990. Bây giờ, khu đất này là trường THCS Quang Trung.

Do có hệ thống mái nhà, chúng tôi thường không đi bằng cổng chính mà trèo qua bức tường cao ngăn giữa khu tập thể và khu nhà hát. Khu khán đài bằng phẳng và rộng rãi là sân chơi của chúng tôi. Chúng tôi miệt mài tìm cỏ gà, cỏ me, cây pháo nổ…để chơi. Mỗi khi có đoàn văn nghệ biểu diễn ở sân khấu này, chúng tôi lại tập trung trên các mái nhà để xem, xa một tí nhưng không mất tiền vé. Ban tổ chức cứ đề nghị bà con không ngồi trên mái nhà xem miễn phí nhưng cũng đành bất lực. Vở diễn mà tôi còn nhớ được là vở kịch “Đêm hội Long Trì” nổi tiếng một thời. Cũng trong một buổi tối cả phố tập trung xem kịch, anh trai tôi vô tình quay lại nhìn thấy một tên trộm đang dỡ mái khu hiệu bộ của trường Dệt vào ăn trộm đồ. Chú bảo vệ trường lúc đó đang ngồi trên mái nhà tôi vốn là bộ đội giải ngũ, phi một phát từ mái tầng 2 xuống tầng 1 rồi nhảy xuống đường kịp về bắt trộm. Đó cũng là một sự kiện lớn ở khu phố thời đó.

Ngoài việc xem kịch, hoạt động giải trí lớn nhất hồi đó là được đi xem phim. Thời đó quanh khu phố có hai rạp chiếu phim. Một rạp chính thức nằm trong vườn cảnh, với màn ảnh rộng và một rạp, chắc là chui, của nhân viên khu nhà hát sau phố tôi, là một phòng họp cũ cải tạo lại và xem bằng màn hình ti vi phát băng video. Đi xem phim ở rạp là hoạt động xa xỉ, thường được người lớn dẫn đi, hay chiếu các phim được gọi là mì ăn liền thời đó. Khắp nơi là băng rôn hình ảnh của Lý Hùng, Diễm Hương, Ngọc Trinh… Tôi vẫn nhớ có một bộ phim có tiêu đề “Tên phim dành cho khán giả”, mỗi khán giả đi xem được đặt 1 cái tên cho phim, ai đặt hay nhất sẽ được tặng một chiếc xe máy hay phần thưởng rất to. Ai cũng nô nức đi xem, giờ nhớ lại mới thấy là một chiêu marketing vô cùng hiệu quả thời đó. Còn rạp chui kia chuyên chiếu phim võ thuật, xã hội đen Hồng Kông, giá vé rất rẻ và chủ yếu dành cho bọn trẻ chúng tôi. Tôi hay đi cùng các anh lớn, thi thoảng có cảnh nóng (hôn nhau) các anh lại lấy tay bịt mắt tôi lại. Nghĩ lại đến giờ vẫn còn bực.

Ngoài các hoạt động đá bóng, trốn tìm giữa các con ngõ, bắn bi, nhảy dây, chơi quay (cù) thường nhật, vào những trưa hè, chúng tôi rủ nhau đi trèo cây, hái bàng, hái phượng, rủ nhau ra vườn cảnh đào giun câu tôm ở cái đài phun nước có ba con rồng. Hồi đó, chắc do nhỏ người, tôi trèo cây rất giỏi. Chúng tôi nhớ được từng cây bàng trên phố, cây nào ngon, cây nào chát. Có giai đoạn trước cửa nhà tôi trồng một cây trứng cá (hồng quân). Nhưng do lũ trẻ con cứ rủ nhau buổi trưa ra hái quả, tranh nhau cãi nhau ồn quá, bố tôi đã chặt đi để thay bằng cây khác. Buổi tối, dưới sự rủ rê của các anh chị lớn hơn, chúng tôi lại chui vào vườn cảnh bắt ve sầu lột xác, tiện thể trêu các đôi đang ôm nhau dưới gốc cây.

Vào những hôm trời mưa, lũ trẻ phố tôi lại tưng bừng chạy đi tắm mưa. Hôm nào mưa to ngập phố, chúng tôi rủ nhau đi lội nước từ phố này sang phố khác. Có lẽ vào thời buổi thiếu thốn đó, việc lội nước cũng là một thú vui ít gặp. Xung quanh nhà máy Dệt là một hệ thống cống thoát nước cực to phục vụ cho nhà máy, trong đó có rất nhiều đoạn mất nắp, lộ thiên. Không hiểu lý do vì sao, có rất nhiều cá cảnh sống trong lòng cống. Chúng tôi cũng hay đi vớt cá về bán cho các nhà nuôi cá cảnh trong phố. Có hôm mải tranh nhau bắt cá, cả mấy đứa ngã lăn xuống cống.

Dân cư gốc của khu phố đa phần là gia đình công nhân của nhà máy hoặc những người làm nghề không cố định. Trẻ con phố tôi nhiều đứa chỉ học hết cấp 1, cấp 2 đã bỏ học đi làm. Có vài người vào tù ra tội nhưng không bao giờ quậy phá ở phố. Thi thoảng chúng tôi tổ chức đánh nhau giữa các khu phố.

Cũng như bao khu phố khác, thời đó nhà nào cũng kiếm một việc làm thêm để tăng thu nhập. Tính từ đầu phố là 1 hàng sửa xe của một bác thương binh, nằm ở khu vỉa hè cạnh tường chùa Vọng Cung. Đối diện sang bên đường là 1 cửa hàng cắt tóc với 1 cái ghế, 1 hộp đồ, 1 cái gương dưới 1 cái bạt và 1 cái xe đạp. Hàng ngày hai ông chủ cửa hàng cặm cụi đạp xe mang theo toàn bộ đồ nghề ra vỉa hè kinh doanh. Lúc rảnh rỗi, tôi hay mon men ngồi xem bác thợ già sửa xe. Hồi đó còn có môn lồng săm xe, vá chín, cân vành gì đó…

Cũng trên đoạn vỉa hè cạnh chùa còn có 1 hàng bánh cuốn bán buổi sáng. Cô bánh cuốn mang theo một cái thúng đựng bánh, chả, ít hành phi và rau thơm. Cũng ở đây buổi tối có một chị trong phố mở hàng bánh mì pate, nhưng tay nghề không cao nên nhanh chóng sập tiệm. Lui vào trong là các nhà mở quán trước cửa nhà mình, nhà ông Sinh bán nước, nhà bà Vân bán bún phở gà, rồi lại một nhà tôi không nhớ tên bán nước. Đến nhà bà Bích ông Tự làm đủ nghề, trong đó có nghề bán cơm ở bệnh viện Phụ sản. Cả phố cứ thắc mắc sao người ta lại ăn cơm được của nhà này. Cách nhà tôi 1 nhà là nhà bác Văn tổ trưởng dân số, bán gạo, nước mắm. Tôi vẫn nhớ có lần sang thấy bác gái chia chai nước mắm rồi rót thêm nước gì vào đấy. Sau này tôi mới biết là bác thêm nước muối vào mắm để bán có lãi. Nước mắm nhà bác chỉ được cái mặn và rẻ.

Ảnh gia đình tôi, chụp khoảng năm 1985-1986

Bên phải nhà tôi là nhà bác Ngân Đàn bán nước. Dịch lên 3 nhà nữa, ngay đầu con ngõ dẫn vào các dãy nhà trong là nhà ông Tĩnh bán than tổ ong. Gia đình chuyên vớt than bùn trôi ra từ cống nhà máy dệt, trộn với ít than đóng khuôn viên than tổ ong bằng một cái máy thủ công, từng viên một. Họ còn chẻ củi nhóm than đóng thành bánh như cái thớt để bán.

Giai đoạn đó, bố mẹ tôi cũng trải qua đủ nghề. Ngoài làm may, nhà tôi còn bán nước, trông xe cho học viện bên trường, bán cháo lòng, cho thuê băng hình. Tóm lại mỗi nghề một tí, bổ sung cho thu nhập ít ỏi giai đoạn đó.

Cũng trong gian đoạn đầu những năm 1990, có một phong trào kinh doanh lan rộng khắp nơi, đó là môn ghi số đề. Cứ chiều xuống phố tôi lại rôm rả với một chủ đề lớn và vô số chủ đề nhỏ, ghi ghi chép chép, rồi luận giải giấc mơ, rồi tính toán quy luật. Cả phố thành nhà toán học, nhà xác suất thống kê. Nhỏ nhất là 200 đồng, lớn thì 1000, 2000, đến 5000. Cả phố ghi đề, chơi đề. Khoản thu nhập đầu tiên của tôi hình như cũng đến từ môn này, hôm đó xin mẹ 200 đồng chơi đề trúng hẳn được 12,000.

Khi bắt đầu vào cấp 2, tôi ít chơi với bạn bè khu phố hơn, chủ yếu chơi với 1 hai đứa bạn gần nhà. Chúng gọi tôi là Thủy cận vì tôi đeo kính từ năm lớp 3 lớp 4. Rồi tôi lên cấp 3, đi đại học. Giờ đây mỗi lần quay trở lại, ngang qua con phố cũ, cảnh vẫn cũ, những bạn bè cùng trang lứa cũng không còn mấy, hàng xóm cũng đã chuyển đi nhiều. Chỉ còn lại những ký ức về một khu phố nghèo bình yên vang tiếng còi tầm nhà máy Dệt năm nào.

PHẦN 3: THỜI CẮP SÁCH

22/10/2021 – Tôi định viết phần này lâu rồi, nhưng không hiểu sao vẫn chần chừ. Hôm nay là một ngày đặc biệt, ngày sinh nhật cậu bạn đã học với tôi từ lớp 1 – Đức Chung. Tôi không gọi điện, nhắn tin chúc mừng sinh nhật bạn, bởi vì tôi muốn tặng bạn một món quà thật đặc biệt. Giờ đây, khi đêm đã khuya, khi hoa đã tặng, bánh đã ăn, tôi muốn là người cuối cùng gửi tặng cho bạn món quà sinh nhật, những kỷ niệm về những ngày tháng thương yêu…cho dù đó chỉ là những ký ức lộn xộn và vụn vặt…

Ký ức tuổi thơ luôn gắn liền với trường lớp, nơi chúng ta học những bài học vỡ lòng, những kiến thức đầu tiên. Trường lớp gắn liền với tình bạn, gắn liền với những bước trưởng thành, chứa đựng bao kỷ niệm buồn vui của tuổi thơ, tuổi dậy thì, tuổi mới lớn, tuổi hoa.

Năm 1988, tôi vào lớp 1 ở trường tiểu học thị trấn Yên Định, Hải Hậu, tôi nhớ tôi được làm lớp trưởng. Nhưng chưa học hết học kỳ I thì nhà tôi chuyển lên Nam Định, nơi tôi gắn bó suốt thời học sinh của mình.

Bố tôi xin học cho tôi ở trường Trần Quốc Toản, cách nhà tôi khoảng hơn 1km. Tôi nhớ là từ cấp 1 tôi vẫn thường đi bộ đi học. Tôi không nhớ được tôi đã làm quen với môi trường mới như thế nào. Trong ký ức xa xôi là những buổi tập viết be bét mực, là lọ mực tím có cái quai tròn bên trên để móc tay vào cầm, là bút máy hero, là bọc vở, là nhãn vở, là sách, là cặp, là các giờ ra chơi chạy quanh sân trường, nơi tôi gặp cậu bạn đã cùng tôi trải qua những năm tháng tuổi thơ.

Trường Trần Quốc Toản khi đó là ngôi trường tiểu học to và đẹp của thành phố Nam Định. Chúng tôi học ở tòa nhà 3 tầng rất đẹp. Lớp 1, lớp 2 trôi qua yên ả. Cứ sau mỗi năm thì các lớp lại chia ra, đảo nhau, nên chúng tôi không có gì để nhớ nhau nhiều lắm. Tuy nhiên, từ năm lớp 3 trở đi chúng tôi học cô Khang chủ nhiệm. Cô dậy rất hay và có mẹ bạn Hiếu ở trong lớp hình như là có quen biết trường nên đầu năm lớp 4, khi chúng tôi đã chia ra học các lớp khác nhau thì nhận được tin lớp tôi sẽ tiếp tục được cô Khang chủ nhiệm và không bị chia nữa. Tôi nhớ chúng tôi đã hò reo ầm ĩ cả trường, tiếng reo vang khắp hành lang các tầng và ùa về lớp cũ. Từ đó, chúng tôi gắn bó với nhau 3 năm cho đến tận lớp 5. Tôi nhớ có ảnh chụp của lớp nhưng không nhớ để đâu.

Chung và tôi học cùng lớp, đương nhiên rồi. Trò chơi phổ biến giờ ra chơi cấp một của tụi con trai chúng tôi là chia phe đánh nhau, đuổi nhau. Nhưng cách chúng tôi quen nhau thì chắc không hợp lắm với hội con trai, và tôi cũng không nhớ là từ năm nào, nhưng mà hình như là từ năm lớp 3. Ngay trước của phòng học là một bồn hoa, trồng nhiều hoa và cây liễu. Tôi vẫn nhớ hôm đó chúng tôi rủ nhau chơi trò thủy cung, hai đứa, hay nhiều đứa tôi không nhớ, lấy lá, lấy cánh kết thành hình con cá, con mực, con gì đó nữa không biết, và cho chúng bơi dưới rặng liễu. Chúng tôi chơi rất vui và giờ ra chơi đó cảm giác rất là dài. Từ sau đó, chúng tôi bắt đầu quen nhau, chơi với nhau nhiều hơn. Chúng tôi học cùng nhau đến tận năm lớp 9. Chuyện đó tôi sẽ kể tiếp ở đoạn sau.

Những năm 1988-1993 là giai đoạn khó khăn với hầu hết các gia đình tại thành phố Dệt, khi nhà máy dệt gặp muôn vàn khó khăn. Có những bữa cơm không có gì ngoài cơm và canh rau, đôi khi là một chút mỡ trộn với cơm. Tôi vẫn nhớ có những bữa nhà không có thức ăn gì ăn với cơm, mẹ tôi trộn cho tôi một thìa đường vào cơm cho dễ ăn. Có đường ăn vẫn còn là hạnh phúc. Tôi nhớ có một người bạn tên là Thanh Hải, cứ hết giờ học buổi chiều đói lả, bố mẹ làm công nhân chưa về, nó cứ lang thang đợi bố mẹ. Có hôm thương nó, tôi rủ nó về nhà ăn cơm cùng. Đến năm lớp 4 thì không thấy nó đi học nữa, nghe đâu bố mẹ nó chuyển nhà đi xa.

Tôi không nhớ được nhiều về những năm cấp 1. Tôi chỉ nhớ những buổi ngồi tập làm văn dưới ánh đèn điện đỏ quạnh. Ngày đó giơ ra chơi có giờ tập thể dục chung, có sinh hoạt chi đội toàn trường. Tôi chỉ nhớ là tôi hay được giao nhiệm vụ lên trước trường kể chuyện cho toàn bộ các bạn nghe. Kể gì thì không nhớ, nhưng có lên kể xong chạy về lớp, chân vướng vào dây loa làm đổ cả bộ âm thanh xuống đất. Từ đó hình như không thấy thầy cô nào gọi đi kể chuyện nữa thì phải

Trò chơi phổ biến nhất thời đó của chúng tôi là chia phe đánh trận giả. Lớp tôi hồi đó có hai thằng rất to là Thọ với Hòa. Hình như Thọ còn là lớp trưởng. Chúng tự nhiên trở thành thủ lĩnh của hai phe. Chúng tôi say mê đuổi nhau, oánh nhau, cầm đá ném nhau, đôi khi chảy cả máu đầu.

Hết cấp 1, chúng tôi chuyển sang trường Hàn Thuyên, ngay sát cạnh trường Trần Quốc Toản và tất nhiên là tôi vẫn đi bộ đi học. Tôi vào lớp chuyên Anh, cùng với một vài người bạn học từ cấp 1, trong đó có Chung và Hiếu. Ngày đó, chúng tôi gọi tên nhau kèm theo tên bố mẹ. Xin phép không kể ra đây, bạn nào đọc tự vào điểm danh nhé.

Ngày đó lớp chúng tôi bắt đầu chia làm các nhóm chơi với nhau, Chung, Hiếu và tôi gom thành một nhóm, chả hiểu sao. Có lẽ chúng tôi chia sẻ những đam mê riêng, những câu chuyện riêng trong một tập thể đông người. Hôm nay, tôi xin chỉ dành phần này cho Chung.

Bố Chung đi xuất khẩu lao động bên Đức, Chung ở cùng với mẹ và em trai. Tôi hay qua nhà Chung và Hiếu chơi. Chúng tôi học nhóm với nhau, chơi chung với nhau, và các buổi chiều hay sáng được nghỉ học, chúng tôi qua nhà nhau, đi chơi, tán phét, học bài, chơi điện tử.

Tôi nhớ năm lớp 7, tôi được giao làm sao đỏ và một trong những người có “vinh dự” được ghi vào sổ sao đỏ đầu tiên của tôi do đi muộn hình như lại chính là Chung. Tôi vẫn nhớ sau đó trong một giờ thảo luận tiếng Anh, có một số bạn đã nêu câu hỏi nếu như bạn của bạn đi học muộn thì bạn có ghi sổ bạn ấy không, một số trách tôi sao không bỏ qua cho bạn. Đó cũng là một kỷ niệm thú vị của tuổi thơ.

Chung ngày đó gầy, đen, tóc xoăn nhưng mắt rất sáng. Chung và tôi chia sẻ sở thích thơ văn. Ngày đó các bạn gọi tôi là Chung thi sĩ và Thủy thư sinh. Chúng tôi thích đọc thơ, trao đổi về các bài tập làm văn hay. Chúng tôi hay ăn cơm ở nhà nhau và qua nhà nhau ngủ để học bài, để buôn chuyện. Ngày đó, mỗi dịp sinh nhật các bạn trong lớp, chúng tôi thường mua một tấm thiệp, tìm mấy câu thơ hay ghi vào đó, tặng kèm những bông hoa.

Lớp 9, khi chia tay nhau cuối cấp, Chung và tôi chợt có ý tưởng tặng mỗi người một tấm thiếp. Chúng tôi kỳ cụi đi mua thiệp, ép vào đó những cánh hoa phượng, hoa mã vĩ, cỏ cây gì đó, kèm theo các câu thơ để tặng các bạn gái trong lớp. Nói là chúng tôi thôi chứ hồi đó toàn Chung ép hoa làm thiệp, vừa đẹp vừa khéo. Sau một vài nỗ lực không thành công, tôi chuyển sang làm thợ phụ giúp Chung hoàn thành dự án của chúng tôi.

Vào cấp 3, chúng tôi không còn học chung trường những vẫn thường xuyên đi chơi với nhau. Lúc này có thêm một bạn tên Xuân. Xin phép sẽ dành riêng cho Xuân một câu chuyện trong phần sau (chưa biết bao giờ). Lên đại học chúng tôi cũng học khác nhau. Ra trường, đi làm, mỗi người một ngả. Có thời gian chúng tôi lại ở cùng nhà trọ, rồi lại chia tay mỗi người một ngả trong cuộc mưu sinh vội vã chốn kinh kỳ.

Cuộc sống mỗi người một ngả, chúng tôi ít nói chuyện hơn, ít gặp nhau hơn nhưng vẫn dõi theo những bước chân của nhau. Tôi tin rằng bạn có một sinh nhật hạnh phúc bên những người yêu thương và chúc bạn vững bước và thành công trên bước đường đã chọn.

Trong cuộc sống, tình cảm là thứ đáng giá nhất. Có những thứ tình cảm nồng nàn, mãnh liệt, có những tình cảm nhẹ nhàng, có những thứ thoáng qua, có những điều còn mãi. Để rồi trên hành trình muôn dặm của cuộc đời, ta có những kỷ niệm buồn vui, có những ký ức không quên về một thời tuổi trẻ, để ta mỉm cười đối mặt với cuộc sống, vì biết rằng luôn có những tình bạn là hành trang vô giá để ta biết sống, biết yêu thương, biết quan tâm…

Bạn tôi ơi…

Ảnh sinh nhật bạn Đỗ Chung năm lớp 6

Bạn thân yêu ơi, cảm ơn bạn và tình bạn của chúng ta. Muốn biết chúng ta quen biết nhau bao lâu chỉ cần lấy tuổi hiện tại trừ đi tuổi đi học. Tớ có lúc nghĩ không gặp nhau lâu thế này liệu nó có quên mất mình không nhỉ nhưng hoá-ra-bạn-vẫn-ở-đây và còn nhớ nhiều, nhớ rõ những kỷ niệm hơn tớ. Trong tình bạn này điều tuyệt vời là tớ luôn được là chính bản thân mình, với bạn tớ không phải cố gắng thành một ai đó và biết rằng bạn vẫn luôn quan tâm.Món quà này của bạn trong event thường sẽ là phần chiếm spotlight và tổng lực pháo sáng lộng lẫy nhất tiệc. Vì bạn cũng có ý sắp xếp như thế nên chúng ta cùng nâng ly nhé – Đỗ Chung.

Trần Xuân Thuỷ

RELATED ARTICLES
- Advertisment -
Google search engine

Most Popular

Recent Comments