Thứ Hai, Tháng 6 16, 2025
HomeĐất Nam ĐịnhPhố Cổ Thành NamPHỤ KHẢO VỀ VIỆC BUÔN BÁN Ở NAM ĐỊNH (1928)

PHỤ KHẢO VỀ VIỆC BUÔN BÁN Ở NAM ĐỊNH (1928)

  • Nguyễn Tử Lăng –

Ngày nay nói đến tiếng thành phố Nam Định, thì ai ai cũng công nhận rằng: phố Nam Định ngày xưa khác, ngày nay khác. Ngày xưa phố Nam Định là chỗ phố xá buôn bán, trong chỗ phố xá buôn bán ấy có nhiều đại gia thế tộc, nhiều tao nhân mặc khách, ngoài thành có trường thi, trong thành có kỳ đài,… Ngày nay phố Nam Định khác ngày xưa nhiều: cuối phố cửa Đông trước có hồ, hiện nay còn tiếng gọi “bờ hồ” mà nay là vườn hoa và hiệu Tây, hiệu Nhật; đầu phố cửa Đông xưa là bến Ngự mà nay là trường Cao đẳng tiểu học, phố Cửa Trường trước là cửa trường kho thu thóc, phần nhiều là nhà lá, nay nhà gạch đã san sát như bát úp; phố cửa Nam nay là nhà máy Tơ; phố cửa Bắc nay là trường Sơ đẳng… Các phố xá có thay đổi, mà tựu trung vẫn không thay đổi gì: buôn bán làm ăn vẫn như cũ, đất lề quê thói không khác xưa, nghe tiếng chạm đục lách cách là qua phố hàng Đàn, nghe tiếng đưa thoi xào xạt là qua phố hàng Cấp, nghề buôn hàng “đoàn” (buôn cất các hàng của người Nghệ, Quảng đưa ra như vỏ rà, cánh kiến, mây, song,…) vẫn còn ở mấy tay cựu thương, nghề bán mắm tôm vẫn còn ở mấy hàng đồ mặn, mấy hiệu thuốc lào khách vẫn đông, mấy rạp hát tuồng trò vẫn vui, các bà đội nón nghê, quai thao, đi dép cong, lẹp kẹp còn nhiều, mà hai ông bà quàng tay nhau đi chơi phố thì ít, cửa hàng đóng cửa từ 6 giờ tối thì có, mà cửa hàng bán suốt đến sáng thì không, cô hàng nước mắm thủng thỉnh một đôi thùng sơn đi rong đường, anh thợ mài dao lủng lẳng vài hòn đá mài đi rong phố, ấy cái quang cảnh đại lược bề ngoài thành phố Nam Định ngày nay là thế, còn cái thương trường chân tướng, cái Nam Định nội dung ngày nay thì có thể tóm tắt ở mấy phần kể sau đây:

Phần thứ nhất: ĐƯỜNG THÔNG THƯƠNG

Nam Định có nhiều đường thông thương tiện lợi lắm. Đường xe lửa thì có đường xe lửa Hanoi – Vinh qua Nam Định.

Nhiều đường bộ có thể đi Auto được đến hết các miền lân cận.

Đường thủy thì trong vào Bến thủy, ngoài ra Haiphong và nhiều đường khác rất thông đồng tiện lợi.

Nói tóm lại thì Nam Định có sẵn đường thông thương mấy hầu hết các tỉnh Bắc Kỳ và phía nam Trung kỳ.

Phần thứ hai: THỔ SẢN

Nam Định thổ sản nhiều nhất là thóc gạo, những ngũ cốc là ở các làng đưa đến, còn ở thành phố thì cơ hồ không có sản vật gì nhiều đáng kể.

Phần thứ ba: CÔNG NGHỆ

Công nghệ thịnh đạt lắm: nghề chạm và đóng đồ gỗ, nghề khảm xà cừ, nghề thêu, sơn, dệt, tiện, kim hoàn, làm đồ thiếc, làm lọng, làm các thứ bánh đồ đường… Lại có thêm một nghề khảm sơn kính bằng trai, song làm rối bán rẻ, nên không lợi mấy. Đó là các nghề cũ, còn nghề mới như chữa máy auto, đóng xe kéo, làm mũ, làm hoa, mạ kền, gần đây lại thêm một nghề thợ rèn làm chảo, làm bằng sắt lá (tôle) chế được thứ chảo này thì ta không phải mua thứ chảo bằng gang của người Tàu. Trong các nghề đó, duy có nghề chạm và đóng đồ gỗ nhiều hơn nhất, nghề này xem ra phát đạt lắm, vì ngày nay các đồ bàn ghế, giường tủ dùng trong nhà có nhiều kiểu mới và nhiều người ưa dùng lối mới, cho nên giá gỗ có cao hơn ngày trước mà nghề thợ chạm và đóng đồ gỗ lại phát đạt hơn, còn các nghề khác cũng bình thường, không có gì tiêu thụ được nhiều.

Về phần người Pháp thì có chi điếm nhà Đông Pháp ngân hàng (Banque de l’Indochine) mới lập xong năm 1926, một nhà máy sợi (Sociète Cotonnière du Tonkin), một sở máy Tơ (SFATE), một sở máy Cưa (Scierie) và nhà cất Rượu (Distillerie). Các công nghệ của người Việt ta cũng phát đạt lắm, song linh tinh lẻ tẻ, phần thì không quy củ nhất định, phần thì không đủ vốn mở mang, cho nên cái tổng số những người làm các nghề đã kể ở trên cũng chưa bằng nửa số người lao động trong hai xưởng máy Tơ và máy Sợi, hai xưởng này số người làm kể cả hai hiệp ngày đêm có tới ngót một vạn người.

Phần thứ tư: GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI

Đường thông thương tiện lợi thì sự giao dịch dễ dàng, cũng vì Nam Định có nhiều đường thông thương cho nên sự buôn bán phát đạt và vui vẻ lắm, mấy tỉnh như Ninh Bình, Phủ Lý, Thái Bình đều đổ xô cả về Nam Định, hoặc theo đường thủy, hoặc theo đường bộ, còn như tải đi, thì tàu thủy chạy Nam Định – Haiphong trong 12 giờ đã tới nơi., có khi kể cả hai chuyến đi về một ngày đã tới số chục, như vậy đủ biết số thóc gạo ở Nam Định tải ra Haiphong nhiều mà các hàng nhập cảng ở Haiphong đem về Nam Định cũng tiện. Đó là nói về giao dịch thông dồn, còn đến sự buôn bán cửa hàng trong thành phố thì duy có phố Khách (Maréchal Foch) là có vẻ sầm uất, phố cửa Đông (Carreau) cũng đẹp và có nhiều hiệu to. Phố Tây (Paul Bert) đường rộng và sạch sẽ hơn, rồi đến phố hàng Rượu (France) phố này kiêm cả hàng Đàn, hàng Thiếc, và Vải màn, là con đường đi suốt từ bến tàu thủy lên đến chợ Rồng Nam Định, qua nhà thờ Thiên chúa ở đầu phố hàng Đàn, những phố khác như hàng Đồng, hàng Sắt, hàng Mành, hàng Song, hàng Nâu, hàng Tiện, hàng Cấp,… đều thấp và hẹp, nhà hai bên dãy phố cũng bình thường, các cửa hàng buôn bán cũng phải khoảng, không có gì là rực rỡ, náo nhiệt.

Mạn dưới có phố hàng Thao (Đồng Khánh) là phố cô đầu, phố Bến thóc, chuyên bán thóc gạo và phố Bến củi, chuyên bán củi.

Trong thành phố có một hiệu người Pháp, một hiệu người Nhật, một hiệu bào chế người Pháp, qua số ấy đến các cửa hàng người Trung hoa thì oanh liệt lắm. Nói rằng oanh liệt lắm thì cũng có khi quá đáng, song nói đến nghề buôn của các chú thì chả cứ ở Nam Định, ở đâu các chú cũng giữ trọng quyền. Rồi đến mấy ông tượng đồng đen ngồi xếp chân bằng tròn, vải xanh, đỏ, trắng, vàng, lốm đốm, sặc sỡ, ô đen mũ trắng, dạ mỏng len dày, thực là đủ mùi đủ vẻ, hễ đắt hàng thì vẽ thêm ra mà lấy tiền.

Một thành phố Nam Định cũng chả to chả bé, xong việc buôn bán khó khăn (ý là cạnh tranh khốc liệt), người ta có chen chân được dự vào hàng cũng khó lắm. Tuy thế, các hiệu ta cũng nhiều hiệu to hơn các hiệu người ngoại quốc, song to là to cửa hàng mà thôi, kì thực hễ hiệu người bán nổi một ngày một nghìn đồng thì hiệu ta mới được trăm đồng là đắt hàng nhất.

Nói về cái nguyên ủy khó khăn ấy không phải là không có cái cơ sở dĩ nhiên. Ít tiền ai bằng thằng Phái-xáng, thế mà cũng có ngày nguy nga đại chủ hiệu, tốt mã ai như tượng đồng đen, thế mà cũng có ngày hàng đông tấp nập. Hàng người bán cho ai: bán cho ta. Hàng ta bán cho ai: cũng bán cho ta… Sao hàng người đông khách mà hàng ta vắng khách? Câu hỏi này mới thật kỳ quái, bí hiểm, song cũng có thể giả nhời tóm tắt bằng một câu rằng: “bởi vì ta chưa biết yêu ta” vậy… Ta chắc vào hàng người mua được rẻ hơn, nhưng mà cái rẻ ấy là cái rẻ giời ôi! Cái rẻ vài ba xu thì ta biết mà cái đắt năm bảy chục ta chưa biết, ta đã chưa biết thì ta vẫn hãy còn mơ kèn tưởng trống…

Người ta có tính hiếu kỳ, hễ đồ Tàu thì cho là thích mắt, ngon miệng, đến cả hòn than cũng dùng than Tàu mới tốt, lạ thật! Có công tử thích chơi đàn, ông lão trong làng Nam Xuyên làm đàn rất khéo, giá bán lẻ có 2 đồng một cây, mà bán cất cho hiệu Khách thì 18 đồng một chục, công tử vào hiệu Khách mua đúng giá 3 đồng mới được thực đàn Tàu, tình tính tinh, tiếng đàn của người mình không hay.

Chẳng những đàn, còn nhiều cái khác cũng giống thế: cái khay sơn kiểu Nhật, để ở hiệu sơn ta thì vẽ không đẹp, sơn không bóng, giả dìm giá rẻ đến một hai hào, rồi cũng cái khay ấy, để vào cửa hàng người Nhật, thì sơn tốt vẽ khéo, đồng bạc cũng mua…

Cũng bởi vì ta chưa biết yêu ta, cho nên, ta chưa đã tin ta, ta chưa đã tin ta, cho nên trình độ buôn bán của ta còn thấp kém, công việc buôn bán của ta chịu thiệt thòi. Vậy từ nay trong thành đã có đèn máy, bóng sáng lòe đã soi khắp nơi ngõ hẹp hang cùng, nay mai lại sắp có nước tự lai (nước máy) trong trẻo, may ra mà thuận buồm xuôi gió, cùng mong khi chén chú chén anh, hợp sức đồng lòng, phát tài kể nghìn vạn ức triệu! Non Gôi còn cao, sông Vị còn dài, thì sự buôn bán của Nam thành ta còn ngày phát đạt. (hết bài)

RELATED ARTICLES
- Advertisment -
Google search engine

Most Popular

Recent Comments