Bài viết của tác giả Hoài Nguyễn ạ!
Chiều cuối năm nhớ Tú Xương
Tản mạn – Hoài Nguyễn
Chiều cuối năm, một người bạn đến chơi và nhâm nhi trong một ngày “ năm cùng, tháng tận”. Chuyện phiếm cuộc đời, chuyện văn chương văn nghệ, chuyện cuộc đời đủ cả. Bất chợt người bạn đề cập đến chuyện chúc Tết của người xưa và luận bàn có lẽ cổ kim chưa có ai chúc Tết “hay và đểu” như cụ Tú Xương!
Tôi cũng đồng tình như thế và câu chuyện Tết nhất lại xoay về đề tài “Cụ Tú”…
Thời học Trung học đệ nhất cấp, hình như năm đệ lục, chúng tôi đã được học về nhà thơ trào phúng cận đại Trần Tế Xương. Thầy giáo dạy môn Giảng văn thời ấy luận bình rất sắc sảo về nhà thơ “ bất đắc chí ” này ! Khi giới thiệu về thân thế và sự nghiệp văn chương của Tú Xương, Thầy cười tủm tỉm và khề khà mấy câu tự trào của “Cụ Tú” :
Vị Xuyên có Tú Xương
Dở dở lại ương ương
Cao lâu thường ăn quỵt.
Thổ đĩ rặt chơi lường …
Rồi Thầy kể về thời đại Trần Tế Xương đã sống. Cuộc đời ngắn ngủi có 37 năm của ông đã nằm gọn trong một giai đoạn bi thương nhất của đất nước. Đó là thời kỳ mà chế độ thực dân Pháp cai trị một cách “toàn diện” trên đất nước ta, đã thay đổi một cách cơ bản cái nền văn hóa “thuộc Hán” cả nghìn năm trước. Về văn chương, văn học thì “Vứt bút lông đi, dắt bút chì…” . Chả thế mà cụ Tú với cái “Học vị – Tú tài rốt bảng” bỗng thấy mình “dở dở, ương ương”, trở thành một người thừa thải của xã hội mới đang trên đà “Tây hóa”.
Nhà thơ Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương, tên bố mẹ đặt cho lúc đầu là Trần Duy Uyên. Ông sinh ngày 5 tháng 9 năm 1870 (tức ngày 10 tháng 8 năm Canh Ngọ), ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Ông mất năm 1907.
Ông đi học sớm và cũng sớm nổi tiếng thông minh. Hồi mới lên 10 tuổi, nhà có khách đến chơi, thấy trước nhà có một dãy chậu hoa, khách bèn ra cho cậu bé Uyên một câu đối: “Đình tiền ngũ sắc hoa” (trước sân có hoa năm sắc), Uyên liền chỉ vào lồng chim khướu treo ở hiên và đối: “Lung trung bách thanh điểu” (trong lồng có chim trăm tiếng). Khách nghe đối tấm tắc khen nhưng lại thở dài “Đời thằng bé rồi sẽ lại luẩn quẩn như chim nhốt trong lồng ”.
Cuộc đời của Trần Tế Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ, nhưng trước hết là một trí thức phong kiến. Ông thuộc loại nhà nho “dài lưng tốn vải” như trong bài Hỏi ông trời của ông:
Ta lên ta hỏi ông trời:
Trời sinh ta ở trên đời biết chi?
Biết chăng cũng chẳng biết gì:
Biết ngồi Thống Bảo, biết đi ả đầu
Biết thuốc lá, biết chè tàu
Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi
Văn học nằm ngoài những định luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết. Thơ văn của Tú Xương là một trường hợp như vậy. Thể xác của Tú Xương đến nay đã hơn 100 năm nát với cỏ cây. Nhưng sự nghiệp văn chương của ông thì vẫn mãi thiên thu với đời, bất chấp mọi thử thách thời gian.
Kìa ai chín suối xương không nát
Có lẽ ngàn thu tiếng vẫn còn
Tú Xương lấy vợ năm 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn.
Ông đi thi từ lúc 17 tuổi, đó là khoa Bính Tuất (1886). Các tài liệu khác chép nhầm là khoa Ất Dậu (1885)
Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Điều đó đã đi vào thơ ca của ông “ Tiền bạc phó cho con mụ kiếm hoặc là Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ hay là Nuôi đủ năm con với một chồng”, rồi ông cũng tự cười mình trong bài Phỗng sành:
Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành,
Mắt thời thao láo, mặt thời xanh.
Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó,
Quắc mắt khinh đời, cái bộ anh.
Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ,
Rượu chè trai gái đủ tam khoanh.
Thế mà cứ nghĩ rằng ta giỏi,
Cứ việc ăn chơi chẳng học hành.

Cuộc đời ông chỉ gắn liền với thi cử, tính ra có tất cả 8 lần. Sau 3 lần hỏng thi mãi đến lần thứ tư khoa Giáp Ngọ (1894) ông mới đậu tú tài, nhưng cũng chỉ là tú tài thiên thủ (lấy thêm). Sau đó không sao lên nổi cử nhân, mặc dù đã khá kiên trì theo đuổi. Khoa Quý Mão (1903) Trần Tế Xương đổi tên thành Trần Cao Xương tưởng rằng bớt đen đủi, nhưng rồi hỏng vẫn hoàn hỏng, đến phát cáu lên:
Tế đổi làm Cao nên sự thế,
Kiện trông ra Tiệp hỡi trời ôi !
Xã hội bấy giờ, cái bằng tú tài thuộc loại dang dở dở dang (tú tài không được thi Hội, cử nhân mới được thi, tú tài không được bổ quan, cử nhân mới được bổ). Cho nên đậu tú tài, muốn đậu cử nhân phải đợi 3 năm sau thi lại.
Cuộc sống của ông về vật chất rất thiếu thốn. Nghèo đói đã cứa xé Tú Xương. Sự đểu cáng đã vả vào Tú Xương. Hoàn cảnh đó được in đậm trong thơ phú của Tú Xương sự vất vả, cay cú, phát phẫn, buồn phiền. Tuy nhiên cuộc đời của Tú Xương có phần gặp “ may mắn ” khi có một người vợ tảo tần, đảm đang. Bà sinh cho ông được 8 người con. Bà Tú là một phụ nữ tiêu biểu cho phụ nữ Việt Nam xưa ở nhiều phương diện như tần tảo, thương chồng, thương con, nhẫn nại quên mình. Công việc kiếm sống cho gia đình của bà là buôn bán nhỏ. Điều đặc biệt là chính bà đã đi vào thi phẩm của ông chồng như một nhân vật điển hình hấp dẫn. Chính vì vậy, Tú Xương rất trân trọng vợ mình, ông viết về vợ như một sự tri ân.
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
(Thương vợ)

Bức tranh hiện thực trong thơ Tú Xương là một bức tranh xám xịt, dường như chỉ có rác rưởi, đau buồn, vì hiện thực của xã hội thực dân – nửa phong kiến là như vậy! Cảm hứng trong thơ Tú Xương hầu như không hướng nhiều về phía phản ánh những cái tốt lành, những cái thuộc về sức sống, về bản lĩnh của dân tộc, của nhân dân, dù có bị ẩn kín xuống nhưng vẫn không bao giờ mai một trong hoàn cảnh lịch sử tang tóc đó. Tú Xương biết buồn đau trước vận nước vận dân. Với giọng văn châm biếm sâu cay, thơ văn của ông đã đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn quan lại làm tay sai cho giặc, bọn bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc, bọn rởm đời lố lăng trong buổi giao thời.
Tính trào phúng được đẩy lên mức cao khi Tú Xương vừa phản ánh cái hiện thực vừa như trả đũa lũ quan lại nhũng nhiễu bằng cách giúi đầy phân vào miệng chúng như bài:
Hà Nam danh giá nhất ông cò,
Trông thấy ai ai chẳng dám ho.
Hai mái trống toang đành chịu giột,
Tám giờ chuông đánh phải nằm co.
Người quên mất thẻ âu trời cãi,
Chó chạy ra đường có chủ lo.
Ngớ ngẩn đi xia may vớ được,
Chuyến này ắt hẳn kiếm ăn to.
(Ông cò)
Ai đã từng đọc thơ Trần Tế Xương, gặp lúc Tết nghèo, có lẽ cũng ít nhiều nhớ tới Trần Tế Xương.
Không như Nguyễn Bính nói “không biết Tết”, Trần Tế Xương biết tết đấy, biết rất rõ tết đang đến, nhưng “vô phương”. Ông không có cách nào để có tiền “ăn tết”. Trong cuộc sống thường ngày, ông đã từng “Van nợ lắm khi trào nước mắt, Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi.” Đã chạy ăn từng bữa thì làm sao có dư để sắm Tết, đón Tết với những gì theo phong tục ông bà.
Than nghèo! Điều đó không chỉ một mình Trần Tế Xương. Nhưng trong lời than của ông, có một chút gì đó ngông cuồng. Ông cũng nhận ông là như thế: “Lúc túng toan lên bán cả trời. Trời rằng thằng bé nó hay chơi.”
Có phải vì nghèo nên Trần Tế Xương có tâm lý ghét người giàu, nhất là những người tu hành. Tu hành thì làm gì có tiền, làm sao giàu? Thế mà họ giàu thì mới là lạ, nên ông mới tức. Tức vì người ta giàu cũng có thể, tức vì người ta mượn nơi tu hành mà làm giàu. Bài thơ sau đây đã kích cái giàu ấy:
Ông bám làm chi đứa trọc đầu?
Đầu không có tóc bám vào đâu?
Nghĩ mình nghiện nặng cho nên kiết,
Đành nó ăn chay ý hẳn giàu.
Một vốn bốn lời mong có lãi,
Năm liều bảy lĩnh tưởng nên câu.
Thế mà không được buồn cười nhỉ!
Không được thì ông lại xuống tàu.
(Vay sư không được)
Thời loạn lạc, đạo pháp cũng suy đồi. Hai cái ấy đi đôi với nhau. Người ta mượn cảnh chùa mà kiếm ăn. Sự việc ấy xảy ra thường quá, nhiều quá nên ông thấy điều đó là “bình thường”. Thời đại của ông là thời đại “Công đức tu hành, sư cũng lọng” nên ông thua ông sư “một vốn bốn lời” cũng là điều “đương nhiên” vậy.
Ở thế hệ ông, người ta không mấy khi tỏ bày cái nghèo cho mọi người biết. Trong quan hệ bình thường giữa con người và xã hội hoặc trong văn chương cũng thế. Người ta thường dấu cái nghèo của mình đi vì sợ bị chê, bị khinh.
Anh đang xúc tép,
Anh thấy cô đẹp
Anh đổ tép đi.
Anh thấy cô đi,
Anh lại xúc tép.
Ca dao
Nghèo mới đi xúc tép. Nhưng bỗng thấy cô gái đẹp đi tới, sợ bị khinh chê nghèo nên đổ tép đi, giả làm như đi chơi, dạo mát ở bờ ao, bờ sông. Khi cô gái đẹp đi rồi, anh trở lại với cái thực tế nghèo đói của mình nên phải lo xúc tép.
Trong cái cảnh bát nháo đó của xã hội đương thời, người ta khoe khoang đủ thứ:
“Khăn là bác nọ lo tày rế.,
Váy lĩnh cô kia quét sạch hè.
Công đức tu hành sư có lọng,
Xu hào xủng xoảng mán ngồi xe.” ,
hoặc việc nực cười khác:
“Chí cha chí chét khua giày dép.
Ðen thủi đen thui cũng lượt là.”
Đâu có riêng gì thời đại Trần Tế Xương mới có cái cảnh đó. Xã hội đương đại của chúng ta hiện nay cũng đầy những kẻ hợm hĩnh, khoe khoang, kênh kiệu, … chính là những nét đặc biệt, là “văn hóa” của sự đổi đời ngày nay.
Trong cuộc đổi đời đó, nhân nghĩa không còn nữa
“Thiên hạ xác rồi, còn đốt pháo,
Nhân tình trắng thế, lại bôi vôi.”
Chiều cuối năm, nhớ đến nhà thơ Tú Xương, một nhà thơ trào phúng bậc nhất của Việt Nam, chúng ta cùng suy ngẫm và chiêm nghiệm lại một bài thơ nổi tiếng của ông : “Chúc Tết” để thấy cái cao trào của sự dí dỏm, trào lộng và “ chửi đời”. Ông đoán trước được tình thế xã hội, và tính toán chuyện làm ăn rất dí dỏm. Nếu “chúng nó” chúc nhau tuổi già, người già sẽ đông, thì ông sẽ đi buôn cối giả trầu, vì người già không răng hay yếu răng, phải giả trầu mới ăn trầu được. Nếu “chúng nó” chúc sang, người sang đi đâu cũng phải che lọng, thì ông sẽ đi buôn lọng, dù ông có “vừa bán vừa chửi” cũng đắt hàng…Và cái kết cục của lời chúc trong một mớ đảo lộn, xáo trộn đó, trong một xã hội nhiễu nhương bát nháo đó là chúc cho “ chúng nó” sao cho … “ra cái giống người”.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen này ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc giàu
Trăm, nghìn, vạn mớ để vào đâu ?
Phen này ắt hẳn gà ăn bạc
Ðồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang
Ðứa thì mua tước, đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.
Lẳng lặng mà nghe nó chúc con
Sinh năm đẻ bẩy được vuông tròn.
Phố phường chật hẹp người đông đúc.
Bồng bế nhau lên nó ở non.
Bắt chước ai ta chúc mấy lời () Chúc cho khắp hết ở trong đời, Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn nước, Sao được cho ra cái giống người . (Chúc Tết) Hoài Nguyễn – ( 22/01/2012) () Khổ thơ cuối cùng có người nói là của Trần Tế Xương, có người cho rằng do người khác bắt chước giọng thơ Tế Xương mà thêm vào.