NHÀ VĂN QUÊ NAM ĐỊNH
NGUYÊN HỒNG
Nhà văn Nguyên Hồng, tên thật là Nguyễn Nguyên Hồng. (1918 -1982), Quê ở phố Hàng Cau, thành phố Nam Định.
Nguyên Hồng giác ngộ lý tưởng cách mạng từ những năm 1936-1939. Ông bị thực dân bắt giam năm 1939 tại nhà tù Hà Giang. Ra tù ông Ông gia nhập Hội văn hóa cứu quốc chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám 1945.
Ông được bầu vào BCH Hội nhà văn, có thời gian phụ trách tuần báo Văn của Hội, được giao phụ trách những lớp bồi dưỡng nhà văn trẻ, làm Chủ tịch Hội văn nghệ Hải Phòng.
Nguyên Hồng luôn luôn trung thành với chân lý cách mạng, có nhân cách cứng cỏi. Từ khoảng 1958 đến lúc qua đời, ông sống cuộc sống thanh bần ở một vùng đồi núi hẻo lánh thuộc tỉnh Bắc Giang.
Tác phẩm
Tiểu thuyết : Bỉ vỏ (1938), Qua những màn tối (1942), Đàn chim non (1943), Hơi thở tàn (1942), Quán Nải (1943), Cửa biển (4 tập: Sóng gầm (1961), Cơn bão đã đến (1967), Thời kỳ đen tối (1973), Khi đứa con ra đời (1976), Thù nhà nợ nước (1981), Núi rừng Yên Thế.
Truyện ngắn, hồi ký, bút ký: Bảy Hựu (1940), Những ngày thơ ấu (1940), Cuộc sống (1942), Hai dòng sữa (1944), Vực thẳm (1944), Miếng bánh (1945), Ngọn lửa (1945), Địa ngục và lò lửa (1946), Đất nước yêu dấu (1955), Đêm giải phóng (1951), Giữ thóc (1955), Sức sống của ngòi bút (1964), Bước đường viết văn (1971), Một tuổi thơ văn (1973), Những nhân vật ấy đã sống với tôi (1978).
Thơ : Trời xanh (1960), Sông núi quê hương (1973).
Kịch : Người con gái họ Dương
Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
*
Nguyên Hồng ngay từ tác phẩm đầu tay đã chọn đúng con đường của một chủ nghĩa nhân đạo thống thiết hướng về những lớp người cùng khổ nhất trong xã hội thực dân phong kiến. Nguyên Hồng cảm bút trước hết không phải để làm văn chương, mà trước hết để nói lên một cách tha thiết nhất, sâu sắc nhất những nỗi thống khổ của loài người mà ông cho rằng văn chương xưa nay chưa nói được bao nhiêu. Trong thế giới của những người cùng khổ nhất ấy, Nguyên Hồng nhận thấy không ai khổ hơn là những người phụ nữ. Họ là nô lệ của nô lệ – nô lệ ngoài xã hội và nô lệ trong gia đình do những tập tục phong kiến nặng nề. Từ Tám Bính trong Bỉ vỏ đến Mẹ La, Gái Đen trong bộ tiểu thuyết Cửa biển sau này, người phụ nữ lao động nghèo khổ vẫn là nhân vật tiêu biểu nhất của tiểu thuyết Nguyên Hồng.
*
Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông đã được chuyển thể thành bộ phim cùng tên là: “Bỉ vỏ”
Trần Huyền Nga
Nhà văn Nguyên Hồng xưa nay vẫn được gọi “đính kèm” với nhiều cái tên như “nhà văn của những người cùng khổ”, “nhà văn viết cho phụ nữ và trẻ em”. Là bởi, ông dành tình cảm sâu sắc cho những người ở tầng lớp lao động nghèo, thân phận phụ nữ và đặc biệt là số phận của rất nhiều trẻ em trước Cách mạng Tháng Tám.
Cờ Tu
Qua đây mới biết đến nhiều danh nhân văn hoá của Nam Định, đúng là ngày xưa học văn khô khan, khuôn mẫu, bjo vào đời thấy văn học là nhân học, rất màu sắc, đa dạng, cách sử dụng từ ngữ đắt giá, nặng nghĩa, mang tính hàn lâm sâu sắc
Vũ Xuân Thu
Những năm tháng qua đi, cuộc sống đầy biến động Thuận-Ngịch , tuổi tác, rồi thư viện hạn chế do kinh phí, văn hóa đọc giảm sút,bởi vậy những bài viết của Đinh Hải Đăng là vô cùng quý giá, giúp ta nhớ lại những tác phẩm mà ta đã lãng quên, những nhân vật một thời ta yêu quý, là thần tượng, là tấm gương mà ta đã học tập và làm theo. Một lần nữa xin được cảm ơn. Mong Đinh Hải Đăng tiếp tục sưu tầm đăng tải để thành viên và bạn đọc Trang Nam Định Đất và Người được biết thêm những thi nhân của đất văn đất học Nam Định.