NHÀ THƠ QUÊ NAM ĐỊNH
TRẦN DẦN
(Từ khóa: nhà thơ Trần Dần, tránh nhầm lẫn với “nhà tiên tri nổi tiếng hải ngoại Trần Dần”)
Nhà thơ Trần Dần (tên thật là Trần Văn Dần) sinh ngày 23/8/1926 tại thành phố Nam Định, mất ngày 17/01/1997 tại Hà Nội.
Ông đỗ tú tài triết học thời Pháp thuộc.
Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông trở về Nam Định tham gia công tác thông tin tuyên truyền. Năm 1948, ông tham gia Vệ quốc quân và là một trong những văn nghệ sĩ tham gia thành lập nhóm văn nghệ quân đội đầu tiên.
Cuộc đời và tác phẩm của ông có những quan điểm và đánh giá khác nhau. Theo nhà phê bình Vương Trí Nhàn: “ Trước mắt người đọc thấy hiện rõ nét một nhà thơ sứ đồ, mà cũng là một nhà cách mạng bẩm sinh, con người của dằn vặt, trăn trở, con người quyết liệt, đi gần tới thô tục, cục cằn, con người căm thù xã hội cũ và tất cả những gì trì trệ, mòn mỏi đến mức sẵn sàng chửi thề, đập phá, song cũng là con người có trái tim run rẩy, cặp mắt rưng rưng trước cái mới đang sinh thành.”
Vũ Xuân Thu
Đúng như tư liệu và bài viết.nhà thơ Trần Dần ít người biết đến, thơ Ông cũng không dễ đọc,dễ hiểu. Cảm ơn Đinh Hải Đăng, những tư liệu quý cũng như những bài viết tuân thủ những quy định của Group Nam Định Đất và Người càng làm cho nội dung trang phong phú, trở thành một trang sư phạm để cho thành viên của trang cũng như bạn Fecbuc tìm kiếm kiến thức và tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu và học tập.
Cuộc đời và sáng tác của ông ít nhiều bị ảnh hưởng bởi những thăng trầm của một giai đoạn lịch sử. Nhưng ông đã để lại một gia tài đồ sộ dù chưa được biết đến nhiều vì những lý do khác nhau….
Có thể với một số người đọc, đặc biệt là người yêu thơ truyền thống, thơ của ông cảm thụ không dễ dàng gì. Những cái mới mẻ, cách tân đôi khi cần thời gian và sự phổ biến ở mức độ nhất định có lẽ mới tìm được vị trí vững chắc và sự lan tỏa, yêu mến trong lòng người đọc.
Năm 2007, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
Bài thơ Việt Bắc
(Trích: Chương I)
Đây!
Việt Bắc!
Sông Lô
nước xanh
tròng trành mảnh nguyệt!
Bình Ca
sương xuống
lạc
con đò!
Đáy dạ thời gian
còn đọng
những tên
Như
Nà Phạc
Phủ Thông
Đèo Thùng
Khau Vác
Tôi nhớ
đồn Róm khi xưa
Nơi ta
ngã xuống
Trời sao ấp ủ!…
Đây
khe suối cạn
Nơi
bạn ta nằm.
Chắc hẳn
khu A.T.K
beo gầm cỏ rậm
Bản xưa
chim chóc
phục hồi chưa?
Người khách đến!
Thuyền lên
bến lạ
Mải vui
sương núi
trăng ghềnh
Tìm đâu
dấu vết ngày xưa?
Đâu
bom đạn tội tình
thuở ấy?
Rừng chẳng nói
lá rơi
vàng võ!
Thác
bạc phơ đầu
mài gọt
đá xanh!
Nhưng hãy tin
nhiều đêm
bên bếp lửa,
Lũ trẻ đầu xanh
nghe
chuyện người xưa,
Cũng
mê mải
như ta
nghe cổ tích!…
Ở đây
ta đã long đong
chín mùa xuân cạm lửa,
Đạn
như ruồi
bâu kín
gót chân đi!
Ở đây
lên Bắc
lại về Đông,
Vò võ
chân trời
khẩu súng,
Mỗi đêm
từ biệt
một quê hương!
Ở đây
ta dấy nghiệp
nhọc nhằn
Hai tay trắng
mưu cơ
tần tảo
Mới làm nên
đất nước bây giờ
Chính
cái nôi Việt Bắc
bế bồng ta
Qua
tất cả
tháng năm đầy lửa
Nuôi ta
nuôi cách mạng
lớn khôn
Ta bầu bạn
củ khoai môn
nương sắn
Bạn
con chim mất ngủ
rừng già
Bạn
sông Đà
sông Mã
chở đầy sao
Bạn hang núi
lá vàng rơi
khắc khoải
Ở đây
muối mặn ta kiêng
thương xót
đời con khát nước
Tương lai
ta thắt bụng
vì mày!
Ta đã nhìn
như
người lính nhịn
Nhìn mùa xuân
lại đến
nhịn mùa đông
Nhịn điếu thuốc
nhịn từng vuông vải
Nhịn no
nhịn ấm
nhịn tình yêu!
Ở đây
mây sớm
quẩn
sương chiều
Đầu bản
hùm kêu
khản giọng
Đạn bom
chầu chực
bốn bên nhà
Ta sống
giữa
bản hùng ca nguy hiểm
Ở đây
manh áo vải
chung nhau
Giấc ngủ
cũng chung
chiếu đất
Hành quân
chung
khói bụi đường trường
Con muỗi độc
chung
nhau cơn sốt
Chiến trường
chung
dầu dãi đạn bom
Tới khi ngã
lại chung nhau
đất mẹ
Hãy chia sẻ cho nhau
gió Bấc!
Chia
mưa phùn
nước lũ
cơm thiu.
Để đến lúc
mắc trùng vây địch.
Lại chia nhau
những thỏi đạn
cuối cùng
Ở đây
ta mắc nợ
núi rừng
Một món nợ
khó bề trang trải
Việt Bắc
cho ta vay
địa thế!
Vay từ
bó củi
nắm tên
Vay từ
những hang sâu
núi hiểm
Cả
trám bùi
măng đắng
đã nuôi ta
Ta mắc nợ
những rừng sim bát ngát
Nợ
bản Mường heo hút
chiều sương
Nợ
củ khoai môn
nợ chim muông
nương rẫy
Nợ
tre vầu
bưng bít
rừng sâu
Nợ con suối
dù trong
dù đục
Nợ
những người
đã ngã
không tên
Ôi
thế kỷ
muôn quên
ngàn nhớ!
Nợ này
đâu dễ trả
mà quên!
………….
Nguồn: Bài thơ Việt Bắc, NXB Hội nhà văn, 1990