NHÀ THƠ QUÊ NAM ĐỊNH
NGUYỄN ĐỨC MẬU
Nguyễn Đức Mậu sinh ngày 14/1/1948 tại xã Nam Điền, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Ông nhập ngũ năm 1966, chiến đấu trong Sư đoàn 312 ở chiến trường Lào. Sau chiến tranh, ông làm biên tập viên, rồi đi học trường viết văn Nguyễn Du, khoá I, sau đó làm trưởng ban tại ban thơ tạp chí Văn nghệ Quân đội, phó chủ tịch hội đồng Thơ – Hội Nhà văn Việt Nam. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông thường sử dụng các bút danh Nguyễn Đức Mậu, Hương Hải Hưng, Hà Nam Ninh.
Ông đã nhận Giải thưởng nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2001, Giải thưởng Hội nhà văn, Giải thưởng Bộ quốc phòng, Giải thưởng ASEAN.
Chùa Keo
Chùa Keo có cây bồ đề trăm tuổi
Người quét chùa quét mãi lá vàng rơi
Mùa cây mãi xanh, đời người ngắn ngủi
Dòng sông phù du bao đợt lở bồi
Tiếng chuông chùa buông chùng đổ nhịp
Người trăm vùng nghe vọng chuông ngân
Hội chùa Keo hàng năm vẫn mở
Ai ở xa thì xin đến một lần
Áo em trắng mùa xuân này thêm tuổi
Theo bạn bè đi lễ hội chùa Keo*
Mùa xuân sau em lấy chồng xứ khác
Phận gái đường xa mỏng cánh bèo
Mẹ vẫn áo nâu sồng thủa trước
Một đời người vất vả chồng con
Lối vào chùa liêu xiêu dáng mẹ
Dấu cỏ lên xanh, bậc đá mòn
Chùa Keo tự bao đời vẫn đó
Mái ngói loang màu rêu thời gian
Dòng chữ khắc trên mộ bia mờ tỏ
Vị sư già kinh phật mở nghìn trang
Hỏi tượng Phật giữa mịt mờ sương khói
Có biết trần gian lắm nắng mưa?
Kìa bông hoa báo mùa xuân mới
Kìa lá vàng rơi trước cổng chùa…
- Hội chùa Keo vào mùa thu tháng 9 Âm lịch. Tuy nhiên vào tháng Giêng từ Tết Nguyên đán đến Tết Nguyên tiêu vẫn tổ chức các nghi lễ cầu cho Quốc thái dân an. Người về tham dự rất đông.
Đinh Hải Đăng
Một bài thơ của ông, thơ của người lính viết về những mất mát trong chiến tranh.
“Bảy vầng trăng khuyết
Binh trạm Trường Sơn năm Sáu chín
Có bảy người con gái trúng bom
Đám tang họ không ai đưa tiễn
Giữa rừng chiều ngổn ngang núi non
Những khuôn mặt lấm lem không bàn tay vuốt mắt
Bảy chàng trai của các cô đâu ?
Bảy chàng trai năm chiến tranh khốc liệt
Sao biết được người yêu mình đã chết ?
Không tiếng mẹ gọi tên con khản giọng
Tên các cô lạc vào hoa, hoa cũng nát nhàu
Da thịt các cô lẫn vào da thịt đất
Người chết và người chết tiễn đưa nhau
Bảy chàng trai là ai, ai biết ?
Nhưng chắc hẳn là có bảy chàng trai
Nếu không chiến tranh, họ đã thành đôi lứa
Như bao lứa đôi hạnh phúc trên đời
Bảy cô gái, bảy vùng quê xa lắm
Hố bom vùi hoá nấm mồ chung
Các cô chết giữa vùng đất chết
Cành cây cháy đen như bàn tay chới với của rừng
Những lá thư tình, những manh áo mới
Bảy cô gái chết rồi chẳng kịp mang đi
Chết tuổi đang yêu, chết còn quá trẻ
Tuổi mộng mơ không kịp trối trăn gì
Đám tang vắng bảy chàng trai ấy
Vắng trắng hoa rừng, vắng nước mắt ngày ngâu
Bảy cuộc chiến tranh, bảy vầng trăng khuyết
Một nấm mồ chìm khuất giữa rừng sâu …”