Thứ Ba, Tháng 6 17, 2025
HomeDi sảnDi sản vật thểNAM ĐỊNH - VÙNG ĐẤT CÓ NĂM BẢO VẬT QUỐC GIA

NAM ĐỊNH – VÙNG ĐẤT CÓ NĂM BẢO VẬT QUỐC GIA

NAM ĐỊNH – VÙNG ĐẤT CÓ NĂM BẢO VẬT QUỐC GIA

Năm hiện vật được công nhận Bảo vật quốc gia tại Nam Định gồm: Tượng Phật thời Lý (thế kỷ XII) lưu giữ tại chùa Ngô Xá, xã Yên Lợi, Ý Yên; Thành bậc lan can thời Lý (thế kỷ XII); Mô hình kiến trúc đất nung thời Trần (thế kỷ XIII-XIV); Bộ chân đèn và lư hương gốm men thời Mạc (thế kỷ XVI) lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Nam Định; Bộ tượng Trúc Lâm Tam Tổ chùa Phổ Minh.

1️⃣Thành bậc lan can thời Lý, là hiện vật gốc độc bản có niên đại thời Lý duy nhất ở Việt Nam hiện nay.

Thành bậc lan can thời Lý
Ảnh: Bảo tàng Nam Định

Thành bậc lan can được công nhận là bảo vật quốc gia theo Quyết định số 53/QĐ-TTg ngày 14/1/2015 Thủ tướng Chính phủ. Hiện vật được tìm thấy trong đợt khai quật phế tích Bảo tháp Vạn Phong Thành thiện trên núi Ngô Xá, xã Yên Lợi, huyện Ý Yên, năm 1966-1967.

Thành bậc lan can hay còn gọi là tay vịn thành bậc có dáng hình hộp, dài 205cm, cao 46cm, dày 17cm, 1 đầu vuông, một đầu chéo nhọn lên trên, chia làm hai phần:

Phần trên 2 mặt chạm nổi hình 14 vũ nữ (mỗi bên 7 vũ nữ) trong tư thế múa dâng hoa, thân hình chia làm 3 khúc chao mạnh về phía trước, một chân co, một chân duỗi thẳng. Đầu các vũ nữ ngả hẳn về phía sau, đội mũ nhiều tầng trang trí hoa văn, búi tóc bồng nổi cao. Khuôn mặt hình trái xoan đầy đặn, trong tư thế nhìn chính diện. Hai tay dang rộng ra hai bên, khuỷu tay co gập đưa song song ngang đầu. Tay trái cầm một nụ sen lớn, tay phải cầm một dải lụa. Xiêm áo mềm mại ôm sát người. Cổ tay, cổ chân đeo trang sức và thắt các dải lụa mềm mại.

Phần dưới tuy cũng trang trí ở 2 mặt nhưng cách trang trí khác nhau. Một mặt chạm kín băng hoa văn chủ đạo là hoa sen xen hoa cúc uốn lượn hình sin, bên cạnh hoa văn phụ trợ hình dấu hỏi và hoa văn tay mướp. Mặt còn lại khớp với bậc lên xuống, vì thế hoa văn được trang trí ở khoảng trống giữa mỗi bậc và đề tài giống với mặt trước. Ở mặt này có 2 mộng khoét sâu vào thân bậc dùng để lắp ghép.

Thành bậc là hiện vật gốc độc bản có niên dại thời Lý duy nhất ở Việt Nam hiện nay. Bảo vật này không chỉ có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa mà còn là cơ sở để chúng ta hình dung được quy mô to lớn của tháp Chương Sơn, từ đó nghiên cứu và phục dựng lại kiến trúc của Bảo tháp thời Lý. Đặc biệt qua các đề tài hoa văn trang trí, nhất là hình tượng người được thể hiện trên bảo vật đã cung cấp nhiều thông tin có giá trị về nghệ thuật tạo hình, tư duy thẩm mỹ, về trang phục, trang sức, nghề thủ công chạm khắc truyền thống; đồng thời còn phản ánh mối quan hệ, sự giao lưu, ảnh hưởng văn hoá giữa quốc gia Đại Việt thời Lý với các nền văn hoá lớn như Chăm Pa, Trung Quốc và Ấn Độ trong lịch sử.

Thành bậc lan can và tượng Phật là hai bảo vật được tìm thấy tại khu vực tháp Chương Sơn xưa, nay là quần thể Di tích lịch sử văn hóa Đình – Chùa Ngô Xá, xã Yên Lợi, Ý Yên. Đây cũng là xã duy nhất cả nước có hai bảo vật thời Lý, góp phần quan trọng vào việc nhận diện về một quần thể di tích Phật giáo quy mô vào thế kỷ XII của Đại Việt.

2️⃣Tượng Phật A Di Đà thời Lý, được thờ tại chùa Ngô Xá (tên chữ là “Phi Lai tự”), thôn Ngô Xá, xã Yên Lợi, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.

Tượng Phật A Di Đà thời Lý
Ảnh: Bảo tàng Nam Định

Tượng phật A Di Đà được công nhận là bảo vật Quốc gia theo Quyết định số 2599/QĐ-TTg ngày 30/12/2013 Thủ tướng Chính phủ. Tượng Phật A Di Đà cùng với Thành bậc lan can và hàng ngàn hiện vật khác bằng đá tìm thấy năm 1966-1967 tại núi Ngô Xá, khu quần thể di tích Đình – Chùa Ngô Xá.

Tượng còn nguyên vẹn, cao tổng thể 200 cm. Được làm bằng đá nguyên khối, màu xám, thô ráp (đá cát), gồm hai phần: Tượng và bệ tượng.

Tượng Phật cao 92 cm, rộng 72 cm, đường kính bệ sen 76 cm; được tạc bằng đá nguyên khối, sơn thếp vàng, ngồi trong tư thế thiền định, hai đầu gối khuỳnh rộng, thế ngồi hơi dướn mình ra phía trước.

Tượng có khuôn mặt và dáng hình nam giới, tóc xoắn ốc, giữa đỉnh đầu có một khối u nổi (nhục khấu), tai giống người thực, to nhưng không chảy. Khuôn mặt hình trái xoan, mắt nhìn xuống, sống mũi thẳng, nhân trung lớn có hai vòng tròn ở hai bên, miệng mím nhẹ, cổ cao ba ngấn. Đầu và thân tượng ghép với nhau bằng mộng (có thể tháo rời).

Thân tượng thon, bụng mảnh dẹt, mặc pháp y với hai lớp áo mỏng bó xát người, xếp thành nhiều nếp. Thân tượng liền khối với cổ bệ. Cổ bệ hình tròn dẹt, 2 mặt trên dưới phẳng, xung quanh chạm nổi 2 con sư tử trong tư thế nhìn nghiêng, miệng cùng ngậm chung một viên ngọc, đuôi chụm nâng hình lá đề. Toàn bộ tượng còn nguyên vẹn.

Bệ tượng cao 108 cm, gồm 2 phần:
Phần thứ nhất là đài sen dùng để đặt tượng. Đài sen hình tròn dẹt, mặt ngoài tạo 2 lớp cánh sen nổi ôm sát nhau. Lớp cánh trên to mập, cứ một cánh to xen một cánh nhỏ. Lớp dưới cánh dài nhỏ, bố trí so le với lớp trên. Trên mặt các cánh sen chạm nổi hình một đôi rồng chầu, thân hình mềm mại, đầu hướng lên trên, với các chi tiết hoa văn dày đặc được chạm đục tinh tế.

Phần thứ 2 là chân bệ, mặt hình bát giác, khối hình chóp cụt, gồm 2 bộ phận ghép với nhau. Nửa trên phần sát với cổ bệ chạm nổi một bông sen 2 lớp cánh lật úp, tiếp đến là các tầng bát giác giật tam cấp, cứ một mặt to xen một mặt nhỏ, mặt đứng chạm đôi rồng đuổi nhau, mặt nằm chạm hoa cúc dây hình sin; nửa dưới có đế bằng, thân tạo 2 tầng, chạm nổi hoa văn sóng nước.

Đây là một trong hai pho tượng Phật thời Lý bằng đá còn nguyên vẹn của Việt Nam tính đến nay, không chỉ có giá trị đặc biệt về nghệ thuật chạm khắc thời Lý mà còn là minh chứng đặc biệt để nghiên cứu về lịch sử, kiến trúc, vị thế của Bảo tháp Chương Sơn trong bối cảnh Phật giáo Việt Nam thời Lý. Đồng thời cũng là cơ sở để nghiên cứu, đối chiếu, so sánh giữa nền mỹ thuật thời Lý với các giai đoạn trước và sau đó.

3️⃣Mô hình nhà kiến trúc đất nung thời Trần, được làm bằng đất nung, có niên đại vào thời Trần (thế kỷ XIII-XIV).

Mô hình nhà thời Trần được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật Quốc gia vào ngày 25/12/2015 theo Quyết định số 2382/QĐ-TTg.
Mô hình do người dân đào được tại khu lăng Chiếng, thôn Lại Xá, xã Hiển Khánh, Vụ Bản, Nam Định năm 1973.

Mô hình nhà kiến trúc đất nung thời Trần
Ảnh: Bảo tàng Nam Định

Mô hình được làm bằng đất nung, có niên đại vào thời Trần (thế kỷ XIII-XIV).Mô hình nhà gồm 14 mảnh ghép với nhau tạo thành bố cục kiến trúc “nội công ngoại quốc”, có kích thước hình chữ nhật dài 100cm, rộng 95cm.

Bên ngoài là tường vây gồm 8 mảnh, kết cấu như sau: phía trước là cổng; chính giữa tường sau là một toà nhà 4 mái, mặt trước 2 bên chạm thông phong hoa văn nhánh cúc; hai bên tường mở 2 cửa, trong đó cửa bên phải có bố cục và đồ án trang trí giống như trên bộ cánh của gỗ chùa Phổ Minh. Mặt trong tường để trơn, khắc ký hiệu để lắp ghép; mặt ngoài trang trí văn hoa thị 4 cánh. Tường tạo 2 mái vát, riêng ở vị trí cổng có 4 mái. Mái lợp ngói ống và ngói mũi sen.

Bên trong gồm các thành phần sau: chính giữa là cụm công trình gồm toà nhà chính hình chữ nhật 4 mái, hiên rộng, dựng 2 cột tròn 2 bên, phía trong là bộ cánh cửa trang trí hình rồng chầu giống mô tuýp trên bộ cánh cửa gỗ chùa Phổ Minh. Kế tiếp là 2 dãy nhà dọc nằm ở 2 bên (dạng ống muống) vuông góc và gối một đầu lên nhà chính. Bên phải công trình chính là nhà đặt bia, bên trái là cây tháp (dạng tháp mộ) 2 tầng 4 mái lợp ngói mũi sen.

Đây là mô hình nhà nguyên gốc, được chế tác hoàn toàn bằng thủ công. Điểm độc đáo ở đây ngoài việc nguyên vẹn về hình dáng, có nguồn gốc rõ ràng thì các chi tiết kiến trúc cột, trụ, xà, đấu, vì kèo…được trang trí tỉ mỉ, thiết kế tinh xảo với nhiều hoa văn chủ đạo như lá đề, hoa cúc, hình rồng mà không một mô hình nhà nào ở Việt Nam có được.

Qua mô hình bước đầu giúp chúng ta hiểu thêm về kiến trúc thời Trần (có thể là kiến trúc dinh thự hoặc tôn giáo), cũng như phong cách trang trí, mỹ thuật thời Trần. Mặt khác cũng làm sang tỏ sự giao thoa văn hóa với Trung Quốc qua việc lợp ngói ống (ngói cánh sen đơn và kép thì thuần Việt, ngói ống là của phương Bắc).

4️⃣Bộ chân đèn và lư hương gốm men thời Mạc (thế kỷ XVI)

Bộ chân đèn và lư hương được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia vào đợt 2 ngày 30/12/2013 theo Quyết định số 2599/QĐ-TTg. Bộ chân đèn và lư hương làm bằng chất liệu gốm men, sưu tầm tại Đình Cự Trữ và Chùa Cổ Chất, xã Phương Định, huyện Trực Ninh.

Chân đèn có kích thước: Đkm 17cm; Đkđ 21,2cm; Cao 76cm. Dáng thon cao, gồm 2 phần cổ và thân ghép với nhau.

Cổ đèn hình trụ tròn nhỏ cao, miệng loe, hai bên đắp 2 tai hình rồng có cánh để mộc chạy dọc cổ, đầu hướng xuống dưới. Phần trang trí nổi không men gồm các hoa văn rồng, phượng, hoa thị 4 cánh, lá đề, rồng trong cánh sen, chữ Hán “Phật” và hoa văn hình học; kết hợp vẽ lam đề tài rồng, phượng.

Bộ chân đèn và lư hương gốm men thời Mạc
Ảnh: Bảo tàng Nam Định

Thân đèn có vai ngang, thân nở, eo thon, chân đế cao loe rộng, đắp nổi hình một con rồng không men, đầu hướng vào dòng chữ Hán khắc chìm theo chiều dọc với nội dung “Hưng Trị tam niên bát nhị thập nhật tạo” (興 治 三 年 八 二 十 日 造) chế tạo ngày 20 tháng 8 năm Hưng Trị 3 (1590). Phần thân đèn sát chân đế tạo một băng cánh sen vuông đầu, lòng để mộc trang trí nổi hoa văn. Ngoài ra còn nhiều loại hoa văn như lá đề, hoa cúc, hoa sen, mây và hoa văn hình học trang trí bằng kỹ thuật đắp nổi để mộc, đắp nổi phủ men nâu, kết hợp vẽ lam xanh dưới men trắng.

Lư hương có kích thước: Đkm 20cm; Đkđ 20cm; Cao 40,4cm. Gồm 2 phần chồng lên nhau.

Phần trên giống một bát hương độc lập có miệng bằng loe, cổ hình trụ, thân phình gắn 4 chân hình đầu thú uốn cong ra ngoài Trang trí đắp nổi kết hợp vẽ lam các loại hoa văn hoa cúc, hoa chanh, hoa sen, lá đề, rồng trong ô, lân, ngựa có cánh, mặt hổ phù, mây và hoa văn hình học.

Phần đế giống chiếc hồ lô trong đó thân trên dáng búp sen, thân dưới hình trụ tròn, cổ nhỏ ngắn, vai nở, đế loe tô son nâu. Ngoài phần trang trí nổi không men hình rồng trong ô, trên chân lư hương còn khắc chìm 27 dòng chữ Hán cho biết người chế tạo lư hương là Đỗ Xuân Vi, xã Bát Tràng chế tạo vào ngày 20 tháng 8 năm Hưng Trị 3 (1590) và tên các tín đồ cúng lư hương vào chùa Thanh Quang.
Bộ chân đèn và lư hương là những hiện vật gốc độc bản về số lượng, hình thức, đề tài trang trí, phong cách nghệ thuật, niên đại tuyệt đối…

Đối với chân đèn, đến thời điểm này là hiện vật duy nhất thời Mạc ở Việt Nam có đầy đủ các bộ phận hợp thành, hoàn thiện về hình thức. Và lư hương cũng là tiêu bản duy nhất có hình thức, hoa văn trang trí cầu kỳ tinh xảo khác xa với các lư hương thời Mạc.

Điểm độc đáo, ẩn chứa nhiều giá trị còn ở chỗ tuy hai hiện vật có nguồn gốc khác nhau nhưng đều được sản xuất cùng ngày 20/8/1590. Căn cứ vào hoa văn trang trí (với 258 chữ Hán), đặc điểm hình dáng, nhất là niên đại tuyết đối ghi trên hiện vật không chỉ là cơ sở quan trọng để nhận biết phong cách tạo hình, nghệ thuật trang trí đặc trưng của thời Mạc thế kỷ XVI, mà còn là cơ sở để đối chiếu, so sánh, xác định niên đại cho các hiện vật cùng thời cũng như những hiện vật sản xuất trước và sau đó.

5️⃣ Bộ tượng gồm Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn với tư thế nằm nghiêng và tượng Pháp Loa, tượng Huyền Quang đang thờ trong chùa Tháp Phổ Minh (tỉnh Nam Định) được Chính Phủ công nhận là bảo vật quốc gia theo Quyết định số 41/QĐ-TTg ngày 30/1/2023.

Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn với tư thế nằm nghiêng được thờ tại chùa Phổ Minh.
Ảnh: Mai Chiến
Tượng Pháp Loa – Đệ Nhị Tổ Trúc lâm (bên trái) và tượng Huyền Quang – Đệ Tam Tổ Trúc lâm (bên phải) được thờ tại chùa Phổ Minh.
Ảnh: Mai Chiến

Bộ tượng có niên đại: Thế kỷ XVII. Hiện được thờ tại chùa Phổ Minh, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.

  • Huyền Nga tổng hợp –
RELATED ARTICLES
- Advertisment -
Google search engine

Most Popular

Recent Comments