Thứ Hai, Tháng 6 23, 2025
HomeTác giả - Tác phẩmChuyện Nam ĐịnhHồi ký "Một thế kỷ ngày sinh mẹ tôi" của nhạc sỹ...

Hồi ký “Một thế kỷ ngày sinh mẹ tôi” của nhạc sỹ Trường Ngọc Ninh

Xin trân trọng giới thiệu với toàn thể group bài viết của nhạc sĩ Ngoc Ninh Truong – hồi ức về người mẹ trăm tuổi của chú gắn với những biến động của Nam Định nói riêng và cả đất nước nói chung. Đọc bài viết, admin tin là những ký ức xúc động của chú sẽ khiến mọi người cũng bồi hồi nhớ về đất và người Nam Định.

Mẹ tôi sinh năm 1921 trong một gia đình trí thức thời phong kiến ở Phố Lạng, ngày xưa là làng Hải Lạng. Dân Phố Lạng gọi ông ngoại tôi là cụ Đội Bính. Mãi sau tôi mới biết chức đội trạm ấy là chức quản lý của ngành bưu điện. Ông ngoại tôi mới thọ được 41 tuổi thì mất nhưng nếp tẻ cũng đã đầy đủ là bác cả Trịnh Xuân Huy, bác thứ hai Trịnh Xuân Hoa, mẹ tôi con thứ ba là con gái đầu ông bà đặt tên là Trịnh Thị Nụ, rồi cô Hạt, cô Chi, cậu Bê – tên gọi ở nhà sau gọi tên cậu Du, tiếp đến cô Bẩy, cậu Tám – sau gọi là cô Diệp, cậu Nghiêm. Chắc hồi đó nhà ông bà ngoại vui lắm.

Khi tôi lớn đã thấy các bác, các dì nhà mình sống ngăn nắp theo lề thói của một gia đình nề nếp thời ấy qua lời ăn tiếng nói thưa gửi nhẹ nhàng. Nét mặt mỗi người sáng láng như những cư dân trên thành phố, mặc dầu xã Nghĩa Thịnh quê tôi đậm chất làng quê nông nghiệp của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hai ông bác được lên thành phố Nam Định học từ nhỏ, còn mẹ tôi thì đã được nhà bố tôi đánh tiếng từ những năm 13, 14 tuổi gì đó, chỉ chờ ngày đẹp hợp với tuổi tác hai người là làm đám cưới.

Năm 1940, lúc ấy mẹ 19 tuổi thì sinh anh cả Trương Vĩnh Khiên. Năm 1943, tôi ra đời. Tuy còn quá nhỏ nhưng tôi vẫn mang máng nhớ có lần mình đang cầm chiếc bánh ăn thì bị người đói giật mất. Ấy là năm Ất Dậu 1945, nạn đói khủng khiếp xảy ra do bọn Nhật – Pháp bắt bà con một vùng châu thổ đồng bằng Bắc Bộ phá lúa để trồng đay làm thuốc súng cho Nhật.

Nhà bố mẹ tôi mặt phố và một mặt trông xuống chợ Lạng nên hàng ngày phải chứng kiến bao nhiêu cảnh chết đói. Mỗi ngày, bố mẹ tôi nấu một nồi cháo to để giúp những người đi qua nhà mình đỡ đôi chút cơn đói. Nhưng tấm lòng từ thiện của mẹ tôi có thấm vào đâu với nạn đói năm ấy?!

Mẹ tôi mang một người đang đói ở chợ về làm con nuôi. Chị nuôi tôi cũng chỉ kém mẹ tôi ít tuổi nhưng cả đời chị đã nhận mẹ tôi như mẹ đẻ của mình. Mẹ tôi dựng vợ gả chồng cho chị đàng hoàng. Chị sinh 3 – 4 đứa cháu, nay chúng đều trưởng thành, chắc chúng không quên người bà nuôi ấy. Sau này, dù đông con (7 anh em chúng tôi) nhưng bố mẹ tôi vẫn nuôi thêm mấy đứa em nữa. Nay chúng cũng đã thành bà rồi.

Nhà tôi những năm trước Cách mạng Tháng Tám có cửa hàng xén buôn bán đủ loại. Hàng cất từ Thành Nam về bao giờ bán cũng chạy nhất chợ. Mọi người không hiểu, cho rằng bố mẹ tôi có duyên buôn bán, nhưng có điều cơ bản ở sự thành công này là bố mẹ tôi buôn bán thật thà, ăn lãi chút ít, người mua mua được hàng thật nên đông khách là vì thế.

Có đồng vốn, bố mẹ tôi mua lại một ngôi nhà tương đối lớn gồm 2 tầng, diện tích mấy trăm mét, to nhất nhì Phố Lạng của nhà ông bếp Duyên bán lại. Chưa ở được ngày nào thì kháng chiến toàn quốc 23/12/1946 bùng nổ, bố tôi theo ông anh vợ cùng Việt Minh đi cướp chính quyền và cũng từ đó bố tôi đi thoát ly. Bố đi tham gia kháng chiến, gia đình thiếu người trụ cột, còn lại mẹ tôi với 3 ông con trai cách nhau 3 năm một đang tuổi ăn, nghịch như quỷ sứ. Mẹ một nách 3 con, phá ngôi nhà to theo lệnh tiêu thổ kháng chiến, để lại tất cả theo nhà ngoại nay Thái Bình, mai Hải Hậu tản cư theo kháng chiến để bố yên tâm công tác.

Vào Thanh Hoá lần thứ nhất, nhà tôi ở dưới núi Voi để tránh máy bay Pháp đi bỏ bom. Tiền bạc cạn dần nhưng cả nhà vẫn quây quần bên nhau: có nhà cô Thuận, cô Như (sau này cô Như lấy chú Thái, con thêm của ông ngoại), gia đình dì Chi – chú Bảo, cả chú Trịnh Hoàng Bội là chú rể lấy cô Thành em bố tôi, cô chú Bội (sinh ra các em Hoà, Nguyệt, Nga) và chú Trịnh Ngọc Tân – Đại tá nhạc sỹ có tiếng trong quân đội.

Nhớ có lần hai ông chú rể (chú Bảo, chú Bội) đánh cờ, được thua thế nào không biết thế là ông Bảo vác luôn bàn cờ đập ông Bội. Thấy ông Bội ngồi yên chẳng nói năng gì, ông Bảo cũng hết cả tức vì thua cờ lại thấy ông Bội quá hiền lành không chấp coi như không có chuyện gì xảy ra… rồi lúc sau lại thấy hai ông đánh cờ, thế mới lạ chứ! Sự lạ ấy làm tôi nhớ lâu đến như vậy.

Vì khó khăn về kinh tế nên năm 1950, mẹ tôi lại dắt díu 4 đứa con về quê Hải Lạng. Ngôi nhà ngoài Phố Lạng đã phá nên mấy mẹ con về Chợ Hôm, nơi sinh của bố tôi để sinh sống, ở nhờ ngôi nhà của ông chú ruột Trương Viết Kinh đã đi tản cư rất xa theo nhà vợ tận Phú Thọ. Mẹ tôi lại tần tảo mở ngôi hàng xén kiếm tiền, một thân một mình nay chợ Lạng, mai chợ Đống Cao rồi ngược lên thành phố Nam Định cất hàng về buôn bán nuôi anh em tôi ăn học. Thôi thì đủ thứ: dầu hoả, xà phòng, nước mắm, đá lửa, kim chỉ, bánh kẹo v.v… thứ gì cũng có. Tôi thì cứ chờ lúc cả nhà đi ngủ mò ra lọ bánh lưỡi bò, thi thoảng lại ăn vụng một cái mà thấy ngon đến tận giờ. Mẹ tôi người cứ sắt đi, lại thêm cái bệnh đi kiết chữa mãi mới khỏi nhưng chẳng bỏ buổi chợ nào. Mấy thằng con trai nghĩ thương mẹ nhưng chẳng biết thể hiện thế nào càng nghịch tợn. Chắc là mẹ thêm vất vả mà chẳng biết chia sẻ với ai khi bố ở xa.

Bận kiếm kế sinh nhai, con đông nhưng mẹ tôi vẫn bí mật hoạt động kháng chiến. Có nhiều đêm, mấy ông cán bộ nằm vùng qua nhà tôi hội họp rồi biến mất trong đêm. Cho tới khi mẹ tôi bị địch bắt, bọn nguỵ dong mẹ tôi cùng mấy anh em xuống ca-nô chở cả nhà lên trại giam trên thành phố Nam Định. Chúng giam mẹ ở nhà máy Chai còn mấy anh em tôi trọ ở nhà người quen – nhà bác Điện ở chợ Cửa Trường. Căn phòng là lối đi ra chợ khu buôn bán gia súc nên cả ngày nghe tiếng lợn kêu, chó sủa, các mùi rác, mùi phân gia súc, mùi khói xe tải chờ chở hàng suốt cả đêm lẫn ngày ám vào căn phòng trọ. Mãi tới khi mẹ được thả chúng tôi mới thoát. Không tra hỏi được mẹ tôi điều gì, lại thêm món tiền đút lót nên mẹ tôi được thả. Ngay trong đêm đó, mẹ tôi cùng mấy đứa con được các chú trong đường dây đưa theo con đường xuống bến Đò Mười, qua Núi Gôi (Vụ Bản) vào Ninh Bình rồi đến Thanh Hoá lần thứ hai. Hết chiến tranh, mẹ tôi được Huân chương chống Pháp hạng Nhì với thành tích là cơ sở bí mật hoạt động chống Pháp.

Năm 1953, bố mẹ tôi gặp nhau khi gia đình đang tản cư vào Nông Cống. Gặp bố mới biết bố còn sống chứ 9 năm ấy có thông tin gì đâu. Lần đó, mẹ tôi lại có tin vui mang thai chú út. Chả biết các lần trước thế nào mà lần này mẹ tôi ốm nghén khổ quá, suốt ngày nhổ nước bọt trừ lúc đi ngủ, không ăn uống được thứ gì. Có lẽ vì thế nên chú út lúc nhỏ cứ quặt quẹo, bé tí, nhưng đổi lại là vừa hết chiến tranh, bom đạn nên mẹ tôi đặt ngay tên Bình, hoà bình năm 1954 mà.

Hồi đó về quê trên một con thuyền xuất phát từ Đò Lèn, cả gia đình lênh đênh hết cửa sông này đến cửa biển khác, bụng mẹ thì to vượt mặt lại còn lo bốn ông con nghịch ngợm như quỷ. Đến Kim Sơn (Ninh Bình), anh Khiên và tôi nhân thuyền đang đỗ nhẩy xuống tắm, bất ngờ chú Dân cũng nhảy tõm xuống sông cứ như đã biết bơi. Chú chìm nghỉm, anh em tôi cuống cả lên, may mà bác Khiên túm được tay chú Dân, nhờ mấy chú chèo đò đưa lên thuyền. Thật hú vía!

Nhớ những ngày sau hoà bình, cả nhà thuê được căn nhà số 15 phố Bến Thóc, mẹ tôi càng vất vả hơn vì 4 đứa con đang đi học, chú Bình thì đang ẵm ngửa nhưng mẹ vẫn đi vào Thanh để cất hàng như gạo, đường, đỗ… về Nam Định buôn bán. Đến khi nhà nước cấm buôn bán tự do thì kinh tế gia đình tôi càng khổ hơn.

Mẹ xin được chân xay thóc thuê cho mậu dịch, thế là mấy anh em biến thành “nông dân cày đường nhựa”, cũng xay thóc, bóc lạc kiếm thêm thu nhập, rồi may màn cho quân nhu v.v… Chẳng việc gì mẹ tôi không nhận về làm nhưng thu nhập chẳng được bao nhiêu nên những bữa ăn toàn đậu phụ kho mắm tôm. Ăn uống như vậy nhưng cả nhà chẳng ai kêu ca khổ sở gì. Thỉnh thoảng bố tôi được nghỉ về thăm nhà thì đó là những ngày hội.

Nhớ hôm đó là ngày 1 tháng 5, ngày Quốc tế Lao động, bố mẹ cho 5 anh em đi ăn mỳ vằn thắn trên phố Hoàng Văn Thụ, ngày trước gọi là phố Khách, toàn người Tầu buôn bán. Có lẽ bát mỳ ấy là bát mỳ ngon nhất trong suốt cuộc đời anh em chúng tôi khi được đi ăn hiệu cùng bố mẹ trong những ngày hết bom đạn chiến tranh.

Ngôi nhà 15 phố Bến Thóc thành nơi tập trung của nhiều gia đình cả bên nội, bên ngoại. Tầng gác gồm bà ngoại, vợ chồng dì Bẩy, chú Nghĩa, vợ chồng cậu Nghiêm – cô Ngần và chiếc giường của mẹ tôi. Tầng dưới là gia đình dì Bảo cùng 5 đứa em. Mấy anh em tôi ở ngăn gác lửng bằng gỗ, nói chung buổi tối muốn nằm đâu thì nằm. Nhà chật như vậy nhưng lòng người rộng nên không khí luôn vui vẻ, ấm áp, tịnh không có điều tiếng gì.

Mấy năm sau, bố mẹ tôi lại dành chỗ cho các em bên nội là chú Khang, vợ chồng chú Đoàn, chú Bội, vợ chồng cô Mây ở. Các cô chú lên Nam Định làm cho hợp tác xã may mặc của nhà nước. Rồi mấy năm sau, gia đình nào cũng có nhà riêng trên thành phố. Bố mẹ tôi luôn là chỗ dựa cho các em, được mọi người quý trọng. Cho đến hôm nay thì mọi người đã về với tổ tiên, chỉ còn lại bà cô duy nhất năm nay cũng gần đầu 9, cô tôi Trương Thị Mây.

Tôi là đứa nghịch nhất trong 5 anh em, dân trèo me trèo sấu của Thành Nam, xin vào “đảng Rồng Xanh” để đánh nhau nhưng không được. Suốt 3 tháng hè là đá bóng trên đường nhựa. Hồi đó không có ô tô, nhà nào có xe đạp đã là sang hơn người rồi. Tôi tắm, bơi qua con sông Đào ngay cạnh nhà hầu như cơm bữa. Mẹ chỉ còn biết dùng roi để dạy 5 thằng con trai thôi, giảng giải nhẹ nhàng đâu có vào tai bọn chúng. Tôi bị đòn nhiều nhất vì lắm tội: lười học, đi xem phim bãi chui rào, đêm về muộn thì trèo lên cây bàng trước nhà để vào cửa, rồi thì ngồi… ị lên cả mái nhà hàng xóm. Mẹ đánh thì tôi nắm lấy roi hoặc lấy sách đệm vào mông để đỡ. Chú Dân cũng nghịch nhưng nhát đòn, mẹ chưa đánh đã lạy rối rít nên chú ít bị đòn hơn. Tôi biết mẹ rất thương chúng tôi nhưng vẫn phải dùng roi vọt để dạy một lũ quỷ sứ chứ còn biết làm sao?!

Bố vẫn ở bộ đội ít khi về nhà nên việc lo toan dạy dỗ con cái một mình mẹ chịu hết, càng nghĩ càng thương mẹ toàn đi đẻ một mình. Năm 1959, một mình giữa đêm khuya, mẹ tôi tự vào nhà thương Thuý Hoàng đầu phố Trần Hưng Đạo để sinh con. Hồi ấy chưa có máy siêu âm nên đẻ ra mới biết là trai hay gái. Sáng ra, tôi là người đầu tiên vào với mẹ, thấy mẹ cười, nằm cạnh mẹ là đứa em gái bé tí trắng trẻo tay chân đang đạp tứ tung. Tôi rất vui vì có đứa em gái đầu, chắc mẹ còn vui hơn nhiều vì có con gái chấy rận sau này. Mẹ sinh 5 ông con trai bây giờ mới có cô con gái nên đặt tên Trương Tố Anh. Em hiện là bác sỹ, hiện công tác tại trường Luật Thành phố Hồ Chí Minh.

Năm 1962, mẹ sinh em gái thứ 2 tại bệnh viện sản Nam Định. Vì đi công tác nên mãi ngày 21/8/1962 tôi mới biết và vào với mẹ. Thấy em nằm cạnh mẹ chân tay hoạt động không ngừng tôi cũng mừng lắm. Nhưng ngay sau đó, tôi bị chảy máu dạ dày nên phải vào cấp cứu tại trạm xá của quân khu luôn, sau phải chuyển lên viện 108. Mẹ tôi để em gái mới sinh được vài ngày theo xe quân y đưa tôi đi viện. Nhìn chiếc áo đẫm sữa của mẹ càng thương mẹ một đời vất vả vì chúng tôi cho đến lúc chết vẫn còn bao nỗi lo. Bác Khiên bị chảy máu dạ dày hồi học bổ túc công nông tận Đông Triều mẹ cũng đi chăm. Chú Dân mổ cắt 3/4 dạ dày ở Ninh Bình mẹ cũng vào. Rồi chú Bình cũng mổ dạ dày. Còn mỗi chú Hưng là không bị ốm nặng thôi. Mẹ lo nhất là cô Oanh bị ốm, rồi cô Nga bị người xấu gây nạn. Mẹ phải đi gặp nhiều người để em có chỗ làm việc ổn định là bác sỹ ngoại sản bệnh viện A. Về mẹ, nói mãi cũng không hết được tình yêu, trách nhiệm mẹ đã gửi lại trong trong lòng, trong con tim anh em chúng tôi cho tới khi nhắm mắt xuôi tay…

Mẹ ơi, một thế kỷ qua đi, chúng con chỉ được ở bên mẹ, bên bố ít thời gian. Gian nan thì nhiều, sung sướng thì ít! Cả bố với mẹ chưa được một ngày an nhàn. Mong có kiếp sau, anh em chúng con vẫn xin được làm con của bố mẹ để đền đáp công ơn bố mẹ – điều mà chúng con chưa làm được bao nhiêu cho bố mẹ ở cõi đời này!

(Ghi lại nhân 30 năm ngày mẹ ra đi).

RELATED ARTICLES
- Advertisment -
Google search engine

Most Popular

Recent Comments