DỊCH GIẢ, NHÀ THƠ, NHÀ VĂN
NHƯỢNG TỐNG
Nhượng Tống (1904-1949) là dịch giả tài hoa, nhà cách mạng, nhà thơ, nhà văn, tên thật là Hoàng Phạm Trân, do bút danh Nhượng Tống nên còn gọi là Hoàng Nhượng Tống. Ngoài ra ông còn dùng bút hiệu Mạc Bảo Thần, Hoàng Kiếm Thu. Ông quê làng Đô Hoàng, xã Yên Thành, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
Sinh ra trong một gia đình Nho học, Nhượng Tống được học chữ Hán ngay từ nhỏ, sau mới tự học thêm chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Ông tinh thông, uyên bác văn chương và triết học phương Đông.
Cuối năm 1926, Nhượng Tống tham gia Nam Đồng thư xã và trở thành một thành viên nòng cốt. Nam Đồng thư xã chuyên xuất bản các sách tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước.
Nhượng Tống cùng với các đồng chí tham gia thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng tại làng Thể Giao, Hà Nội. Ông phụ trách vai trò trọng yếu trong việc biên soạn văn thư tuyên truyền và huấn luyện đảng viên.
Năm 1929, theo kế hoạch của Nguyễn Thái Học, Nhượng Tống được giao nhiệm vụ vào Huế gặp Phan Bội Châu, mời Cụ làm Chủ tịch đảng danh dự. Việc chưa thành, Nhượng Tống bị Pháp bắt, tuyên án ông 10 năm tù, rồi đày ra Côn Đảo, mãi đến năm 1936 mới được tha. Khi Nhượng Tống đang còn bị giam tại Côn Đảo, thì các đồng chí của ông tổ chức cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930). Cuộc khởi nghĩa bị đàn áp đẫm máu. Ngày 17 tháng 6 năm 1930, Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí lên đoạn đầu đài, đánh dấu một giai đoạn tích cực làm cách mạng dân tộc của Việt Nam Quốc Dân đảng.
Sau thất bại đó, Việt Nam Quốc Dân đảng đã dần phân hóa, bị thực dân Pháp và các thế lực phản động lợi dụng và một bộ phận sau này trở thành lực lượng phản cách mạng.
Những ngày tháng bị cầm tù tại Côn Đảo, Nhượng Tống vừa giữ vững khí tiết vừa dốc sức vào học tập, nghiên cứu văn chương, triết học phương Đông, tạo nội lực cho những sáng tác vào thập niên 40. Những tác phẩm dịch thuật mà Nhượng Tống để lại cho văn học thật đồ sộ, tạo nên chân dung một học giả uyên thâm, sâu sắc, ít có người sánh kịp.
Hội thảo ngày 9-12-2015 tại Hà Nội đã khẳng định những đóng góp to lớn của Nhượng Tống và cống hiến đó bắt nguồn từ tình yêu đất nước của ông.
*
Văn học cổ điển của Trung Quốc có 6 bộ sách tài tử, gồm: Nam Hoa kinh của Trang Tử, Ly tao của Khuất Nguyên, Thủy hử của Thi Nại Am, Sử kí của Tư Mã Thiên, Thơ luật của Đỗ Phủ, Tây sương kí của Vương Thực Phủ, thì Nhượng Tống đã dịch đầy đủ 5 bộ, trừ Thủy Hử. Ngoài ra, Nhượng Tống còn dịch Đạo đức kinh của Lão Tử, Kinh thư của Khổng Tử, Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần, Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi. Đến nay, các bản dịch được giới nghiên cứu đánh giá cao.
Ngoài dịch thuật, Nhượng Tống còn làm thơ, viết tiểu thuyết, truyện ký lịch sử. Thơ ông chưa sưu tầm đầy đủ, song, qua các bài như Cảm đề lịch sử, Khóc Nguyễn Thái Học, Cảnh nhà tù, Vô đề, Tắm trong tù, Từ giã Tuyên Quang,… cho thấy một trái tim dạt dào cảm xúc.
15 năm sau Khởi nghĩa Yên Bái (1945), Nhượng Tống viết truyện ký Nguyễn Thái Học. Đây là tư liệu quan trọng về cuộc đời cách mạng của Nguyễn Thái Học. Nhà sử học Dương Trung Quốc nhận xét trong Lời giới thiệu: “Sách chứa đựng nhiều tư liệu có giá trị để các thế hệ sau tiếp tục nghiên cứu và viết về Nguyễn Thái Học, tổ chức Việt Nam Quốc Dân Ðảng cùng cuộc Khởi nghĩa Yên Bái”.
Đằng sau những trang viết về Nguyễn Thái Học, người đọc dễ nhận ra hình tượng của tác giả. Đó là một trái tim thổn thức về tình bạn, tình yêu nước, cao hơn là sự nghiêng mình trước anh linh các đồng chí, bạn bè hy sinh cao cả, vì nước vì dân.
*
Nhượng Tống để lại một di sản văn chương đa dạng về nhiều thể loại. Những bản dịch vào thập niên 20 và 40 thế kỷ trước đã làm phong phú và hiện đại hóa tiếng Việt. Cho đến nay, về phương diện dịch thuật những tác phẩm kinh điển của văn học Trung Quốc, Nhượng Tống có một đóng góp to lớn.
Khóc Nguyễn Thái Học
Nhục mấy trùng cao, ách mấy trùng,
Thương đời không lẽ đứng mà trông.
Quyết quăng nghiên bút xoay gươm súng,
Đâu chịu râu mày thẹn núi sông.
Người dẫu chết đi, lòng vẫn sống,
Việc dù hỏng nữa, tội là công.
Nhớ lời di huấn cơn lâm biệt,
Cười khóc canh khuya chén rượu nồng.
(Nhượng Tống)
Đinh Hải Đăng
Đây có lẽ là nhân vật ít người biết đến, thậm chí lần đầu tiên nghe tên ông. Gác qua những biến động của lịch sử và nhìn nhận một cách khách quan có thể nhận thấy ông là một tài năng hiếm có, một nghị lực phi thường trong học tập đặc biệt là giai đoạn chuyển giao văn hóa, chữ viết trong lịch sự ngôn ngữ, giáo dục và xã hội Việt Nam…