Lời tác giả:
Cách đây 60 năm (1955-1956), cuộc Cải cách Ruộng đất (CCRĐ) long trời lở đất đã diễn ra ở nông thôn miền Bắc, thực hiện mục tiêu “phản phong” của Cách mạng, ước mơ ngàn đời “người cày có ruộng” của nông dân. Cùng với Hợp tác hóa Nông nghiệp, và Đổi mới gần đây, đó thực sự là những biến động to lớn, rúng động toàn bộ kinh tế, xã hội, nếp sống của làng quê, với nhiều điều được, bên cạnh là bao điều mất mát, để lại hệ lụy lâu dài.
Có lẽ nhiều người không muốn nhắc lại, người viết cũng không có ý “bắn súng vào quá khứ”, chỉ là nhớ lại Nông thôn một thời, quá khứ không nên quên lãng Xin được bạn đọc, hiểu và cảm thông. Xin trích đoạn Hồi kí viết về quê hương và tuổi thơ tôi, gắn bó với vùng quê phía Nam sông Ninh Cơ, Nam Định
Cảm ơn các bạn bớt chút thì giờ đọc !
PHẦN 1
Tháng 10-1954, gia đình tôi trở về mảnh đất quê hương sau những năm tháng tản cư gian khổ trong xứ Thanh. Làng Kiên Lao trù phú và yên tĩnh, nằm bên sông Ninh Cơ mượt mà phù sa. Mỗi khi chiều xuống, ngân nga và lặng lẽ chìm trong tiếng chuông nhà thờ; và bồi hồi khi “Con cua còng đỏ khép càng đi ngủ. Nghe rào rào, đất thở, thuỷ triều lên…”
Làng tôi trải dài theo những con sông nhỏ uốn lượn, nước về mênh mang mỗi khi mở cống Trà Thượng. Những chiếc cầu tre nhỏ chênh vênh, thuyền con tấp nập, vó câu giăng giăng trên mặt nước…Qua chiếc cầu đá đầu làng, là những luỹ tre, hàng cau, bụi chuối xanh ngắt; những căn nhà tường đất nện, mái rạ, mái bổi dày thấp lè tè, lơ lửng khói lam chiều. Thấp thoáng bóng nón trắng, áo nâu non của các chị, các cô đầu đội thúng chĩu nặng, tay đưa vắt vẻo. Phụ nữ quê tôi chuyên đi chợ, đội gạo, đội thóc…nên cứng đầu cứng cổ? Làng đa phần là công giáo, chỉ có mấy thôn phía ngoài nhà tôi ở là không theo đạo. Gần xa thấp thoáng những tháp chuông nhà thờ cao vút: nhà thờ Kiên Lao, nhà thờ xứ Bùi Chu, nhà thờ đá Phú Nhai cao nhất Đông Dương. Những đôi mắt con chiên âm thầm lặng lẽ đức tin, ẩn hiện dưới vành khăn mỏ quạ.

Nằm ở vị trí trung tâm, cao ráo và khang trang giữa làng, là dinh cơ của cụ nội tôi, gốc gác phong kiến và nho giáo, nhà giàu có và danh giá ở huyện phía nam Nam Định, được Triều đình Huế sắc phong. Chiến tranh đã làm tan hoang nhiều, nhưng vẫn còn lại chiếc cổng xây gạch đồ sộ, cánh cổng lim chắc chắn; có chòi canh trên cao. Hai bên tả hữu là các dãy nhà từ đường, nhà ở cổ kính, vườn cây, ao cá. Sân gạch nhà trên rộng thênh thang, nơi chiều chiều tiếng đập bóng bồm bộp, tiếng hò hét của đám thanh niên chơi bóng chuyền. Lũ trẻ cởi trần say mê chơi khăng, chơi cù, cướp cờ, đánh đáo. Ngày mùa râm ran tiếng trục đá kéo lúa, quạt thóc. Thi thoảng những đêm văn nghệ, đêm chèo, cải lương, ánh đèn măng-sông sáng xanh khuấy động cả vùng quê. Đường đi trong ngõ và hè bậc lát đá xanh nhẵn lì. Buổi tối lũ trẻ nằm trên thềm đá hóng mát, ngắm trăng và bầu trời đêm lung linh dải Ngân Hà, thả trí tưởng tượng vào các ngôi sao Thần Nông, Bắc Đẩu, con Vịt xa xăm…Gió Nam mát rượi từ con sông và cánh đồng mênh mang phía trước. Bến sông lát đá, rộn tiếng cười nói, giặt giũ, tiếng trẻ bì bõm bơi lội. Bờ ao hoa sung, hoa khế rụng đầy; chiếc cầu ao cũng bắc bằng phiến đá phẳng. Các chị các cô vo gạo, rửa bát; tiếng nước dội ào ào; những bờ vai trần thấp thoáng trong bóng tối xẫm lại…
Dinh cơ đẹp nhất phía trước là của cụ Cả Hàm, bác ruột bố tôi, để lại cho bố mẹ tôi thừa hưởng, vì cụ không có con trai nối dõi. Nhà chính 5 gian tường xây gạch trần nâu bóng, nổi mạch; cột gỗ lim to người ôm, kèo gỗ lim và thanh đầu đao đỡ mái có điêu khắc hình rồng phượng rất đẹp; mái lợp ngói vảy cá rêu phong. Bố tôi thoát li theo Cách mạng, đã hiến cho xã làm nơi hội họp và lớp học. Đây cũng là nơi tôi đã học năm lớp 1 đầu tiên của tuổi chập chững cắp sách. Sau này mẹ và anh em tôi đôi lúc vẫn chút nuối tiếc, không chỉ bởi giá trị dinh cơ, mặt tiền kề đường lớn, mà còn là những kỉ niệm một thời. Nhưng nếu không vậy, thì với cơ ngơi đồ sộ, có lẽ cả nhà tôi đã bị cuốn chìm đi trong cơn bão tố Cải cách Ruộng đất 1956. Có một chuyện gần như là bi hài của thời cuộc: sau này về hưu ở quê, anh Hùng tôi phải chạy vạy vất vả (lên xã, lên gặp lãnh đạo huyện) xin ưu tiên mua lại chính trên mảnh đất của ông cha, mà bố tôi hiến cho Cách mạng (nay xã chia lô bán đi để có tiền xây dựng trụ sở, trạm xá…) một ô đất nhỏ 20m2 mặt tiền, để xây quán bán hàng mưu sinh. Nhà tôi phía sau, sân gạch, vườn cây ăn quả rộng rãi. Mùi hương ngọc lan, hương ngâu thơm ngát về đêm. Vườn ổi, táo, khế ngọt, đặc biệt là vườn nhãn lồng Hưng Yên, mẹ tôi gây trồng từ trước ngày tạm chiếm, nay đã xum xuê, từng chùm quả chĩu chịt, đậm đà vị ngọt. Mỗi mùa ổi, táo chín, mùa thu hoạch nhãn, trẻ con cả dong được mẹ tôi sai hái quả, thu gom đem bán, xếp chật gian nhà, nguồn thu không nhỏ của gia đình tôi thời ấy. Được thoả thuê ăn những quả rơi rụng, quả lẻ, quả giập…
Tôi đã có những ngày thơ ấu, chơi trốn tìm sau những rặng nhãn, rặng ổi. Nằm vắt vẻo trên cành cây đọc truyện; khu vườn im ắng, vòm lá xanh rì lao xao tiếng chim hót. Trưa hè êm ả thiu thiu ngủ trên thềm đá, hóng gió nồm Nam mát rượi. Hoặc bó gối ngồi câu tôm bên bờ ao, cạnh mấy chú trâu đen bóng, mập tròn dằm mình dưới nước thở phì phò khoan khoái…Những đêm trăng sáng, sân gạch rộng náo nhiệt với trò chơi dân gian: rồng rắn lên mây, bịt mặt bắt dê… Đêm Trung thu mâm cỗ quê nghèo chỉ có bỏng ngô, lạc luộc, đẫn mía và dăm ba quả bưởi; mà vẫn say sưa vui đến khuya. Những chiều hè sôi động reo hò quần thảo với trái bóng cao su, có khi là trái bưởi. Phải cẩn thận và khéo léo, vì bọn trẻ quê chưa biết dẫn và lừa ban, chỉ chăm chăm phang chân nhau! Sau đó nghỉ ngơi tắm sông thoả thích, bơi xuôi theo dòng nước mở cống, phù sa mát lạnh. Trên thửa ruộng trơ gốc rạ sau mùa gặt, người lớn trẻ con xúm xít thả diều. Đủ loại diều lớn nhỏ, lắp bộ sáo vi vô, sáo ì. Ngước mắt say mê dõi theo cánh diều bay bổng, chút mơ ước nhỏ nhoi giữa cuộc đời bình dị. Không gian mênh mông tiếng sáo diều, chìm đắm trong tiếng rền rĩ chuông nhà thờ vọng lại…
Ngày mùa ở làng quê thật rộn rã. Lũ trẻ theo chân người lớn ra đồng, thảm lúa vàng mênh mông, nón trắng nhấp nhô, để lượm mót từng bông lúa sót, đuổi bắt những chú muồm muỗm nướng ăn thơm ngậy. Buổi trưa, thể nào cũng được xà vào mâm cơm thợ gặt trải lá chuối giữa ruộng. Mùi cơm mới thơm lừng, nồi canh cá dưa dậy mũi, lại thêm những miếng thịt luộc thái to cắn ngập răng…mà ngày thường đâu có được thoải mái! Lớn lên, ở cái tuổi 17 bẻ gãy sừng trâu, cậu học sinh thành phố Nam Định đã quen gánh nước như tôi, nghỉ hè về quê tham gia vụ gặt, cũng phải nghiến răng khi xốc đòn xóc gánh lúa nặng trĩu, nảy đom đóm mắt trên vai, từ ruộng ra thuyền. Chiều về theo thuyền lúa ngập mớn mạn nước, hối hả gánh lúa về sân. Đêm đến, lại phụ giúp đảy xe kéo lúa bằng đá, chạy lòng vòng trên sân gạch, mồ hôi nhễ nhại như tắm…Đó là chưa được nếm trải mùi xếp ải, tức là vác đất lê la trên ruộng khô, xếp đất thành hàng để phơi nắng. Lưng mỏi nhừ tưởng như khuỵu xuống. Hoặc cuốc ruộng, bàn tay thành chai mà vẫn phồng dộp, rớm máu…Vậy mới cảm thông phần nào nỗi cơ cực của người nông dân dầm dãi hai sương một nắng.

Vùng đất quê tôi cuối sông Hồng, sông Ninh Cơ phù sa mượt mà phì nhiêu, nước ngọt tiếp giáp nước lợ, nên tôm cá hải sản nhiều vô kể. Mùa hè những bát canh cua đồng, cua ra nấu rau đay thêm quả mướp non hái từ vườn sao mà ngọt mát. Mâm cơm quê bao giờ cũng có đĩa cá bống mít kho khô; đĩa cua rạm hay tôm rảo, tôm đồng mẩy trứng rang mặn. Các món ăn bây giờ là đặc sản dành cho người nhiều tiền, thì thời ấy quê tôi lại là phổ biến, và cũng không phải là quá đắt đỏ: cua bể, ghẹ, cá thu, cá chim…còn tươi rói từ chợ Bể mang về. Bây giờ về quê, tôi chỉ thích được ăn con móng tay luộc chấm muối chanh; bát canh ngao nấu mồng tơi; nồi canh cá khoai (loài cá chỉ có dây sống, đặc thịt mềm ngon); và món nem bì thái miến bóp thính tỏi, ăn với lá sung non, một đặc sản vùng quê phía nam Nam Định; nhâm nhi lưng chén rượu nếp Kiên Lao cay nồng… Tết, trẻ con nhà nghèo cũng cố gắng xúng xính diện quần âu xanh, áo sơ mi xanh trứng sáo mới sột soạt. Các cô thiêú nữ áo phin nõn trắng, áo nâu non tươi màu, quần lụa đen phấp phới. Ngày cuối năm đi chơi chợ Phiên, dẫu chợ Tết cũng chỉ leo tèo, hơn ngày thường một vài bánh pháo tép màu hồng bán lẻ, đôi ba tranh in hình trẻ con Trung Quốc hồng hào múp míp…Nhiều Tết rét như cắt, mà người lớn, trẻ con vẫn phong phanh áo đơn, áo sợi mỏng, má các chị các cô đỏ hồng trong giá lạnh. Các bà các cô lớn tuổi co ro trong chiếc áo bông đen trần hạt lựu, chít khăn mỏ quạ, bỏm bẻm nhai trầu. Thi thoảng xuất hiện bóng một vài chiếc áo bông xanh cổ lông vịt, áo len màu lam điệu đàng của vài chàng trai, cô gái thành phố về quê ăn Tết. Nhà giàu hay nhà nghèo, Tết đến, vẫn lau nhà cửa cột kèo, đòn tay, bàn thờ bóng lộn, bày đặt trang trọng. Trẻ con ríu rít mong đợi từng ngày, đâu biết bố mẹ chúng đang lo méo mặt. Ngày thường thế nào xong thôi, Tết đến cũng cố có manh áo mới, đụng nhau góc lợn, gói vài ba cặp bánh chưng, lo mâm cỗ cúng tổ tiên cho khỏi tủi với làng nước. Đêm giao thừa tiếng pháo nổ đì đẹt; một vài tiếng súng dân quân đùng đoàng vu vơ; tiếng chuông từ đường họ, chuông nhà thờ dóng dả phá tan cái khoảnh khắc lặng lẽ thiêng liêng. Màn đêm thoảng mùi hương trầm, cùng cái xe lạnh của mưa phùn rây rây bột. Để rồi sáng mồng một, đàn ông trịnh trọng sang từ đường thắp hương, thanh niên kéo lên Uỷ Ban xã chào cờ, có bắn súng trường thay pháo Tết. Rồi về nhà quây quần bên mâm cỗ cúng có đủ giò nem ninh mọc chả. Sau đó sang nhà bà con họ hàng, râm ran chúc nhau những lời vừa chân tình, vừa xáo mòn, mong mỏi một năm mới tốt lành. Không biết có có gì hi vọng, mưa xuân mịt mùng trên cánh đồng còn xơ xác gốc rạ và luống đất ải bạc màu? Giêng hai và giáp hạt tới, bồ thóc vơi dần, một phần cơm lại độn ngô, hoặc khoai nước khô, thứ khoai nuôi lợn trồng rất nhiều ở ven ao chuôm, ăn chưa quen cứ ngưa ngứa cào rát trong cổ họng.
Những buổi chiều sau giờ học, lang thang vào nhà thờ Kiên Lao. Sân gạch, hồ nước mênh mông, tháp chuông cao vút, khối kiến trúc gôtic kì dị và xa lạ. Thánh đường im ắng, những âm thanh vời vợi, tượng Thánh Giêsu bị đóng đanh câu rút rợn người. Thấp thoáng bóng vài bà xơ lặng lẽ, khăn trùm kín mặt, đôi mắt âm thầm. Hiếm khi thấy ông Cha xứ đạo phương phi xuất hiện để đám giáo dân cúi rạp người chào hỏi thành kính. Một vài ánh mắt to, đẹp âm thầm như mắt Đức Mẹ của thiếu nữ công giáo. Như một thế giới riêng biệt, xa lạ, những bài thánh ca trong vắt vang vọng thánh đường âm u, những cụ già lầm rầm đọc kinh cầu nguyện, tay áp ngực thành kính. Đêm Giáng sinh, nhà thờ trang hoàng lộng lẫy, điện nến sáng choang. Dòng người nườm nượp đổ về toà xứ Bùi Chu, thời xưa Pháp định xây Bùi Chu thành thủ phủ Công giáo miền Bắc. Những đội kèn đồng bóng loáng, đội trống cà rùng nhảy múa nhộn nhịp, xáo động một vùng quê yên ả.

Ngược lại, chùa Kiên Lao xây rất đẹp và cổ kính, thời ấy lại trở nên hoang vắng, rêu phong tàn tạ. Không còn sư trụ trì, thưa vắng người vãn cảnh, và các bà các cô áo tứ thân, yếm thắm lên chùa dâng oản. Nhiều gia đình theo đời sống mới, không còn hương hoa ngày rằm, mồng một. Bàn thờ gia tiên cũng đơn giản đặt trên nóc tủ chè hay thạp gỗ; chỉ có bát hương bằng chiếc lon sữa bò đựng cát Thi thoảng ngày giỗ chạp, ngày Tết mới thắp vài nén nhang. Phía trên bàn thờ giữa nhà treo ảnh 4 ông Tây râu ria xồm xoàm, nghe nói là các ông tổ của Cách mạng: Mác, Ăngghen, Lênin, Xittalin, và ảnh Bác Hồ. Có nhà con treo một dãy ảnh các ông Tôn Đức Thắng, Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt…, ảnh Mao Chủ tịch bệ vệ bên cạnh các vị nguyên soái Tàu Hạ Long, Bành Đức Hoài, Chu Đức oai phong lẫm lẫm. Trong chùa ẩm thấp, không khí như đặc quánh lại. Những pho tượng Phật hiền lành im lặng phủ bụi mờ. Hai ông Hộ pháp xanh đỏ dữ tợn đứng trấn cổng chùa. Phía sau là Hậu đồng, bãi tha ma bạt ngàn, đêm đến rờn rợn ánh lửa ma chơi và đom đóm; trẻ con đố đứa nào dám lai vãng. Chỉ có những đêm chớp bóng là sân chùa chen chúc náo nhiệt. Tiếng máy chạy xè xè, được 30 phút xong một cuốn phim thì đèn bật sáng, ngừng máy để thay băng, làm người xem ồn ào, hẫng hụt. Những cuốn phim thời ấy, thiên về tuyên truyền giản đơn, vậy mà vẫn háo hức bao thế hệ già trẻ. Xem xong về vẫn còn ngây ngất, rôm rả bàn tán. Những hình ảnh Bát Lộ quân Trung Quốc người người lớp lớp xông lên, giặc ngã hàng loạt như sung rụng…thật oai hùng, phấn khích. Nông trang Xô Viết máy cày, máy gặt chạy thả sức trên cánh đồng bát ngát là hình ảnh ước mơ thiên đường “lão ngồi mơ nước Nga”. Thi thoảng có một vài cảnh người lớn yêu nhau ở phim Liên Xô, nụ hôn thoáng qua và dừng lại vội vã, cũng rộ lên xuýt xoa. Đám các chị các cô lại che mặt ngượng nghịu, đấm thùm thụp vào lưng nhau, khúc khích cười “vớ vỉn”…
Quê ngoại mẹ tôi là làng Lạc Quần, gần bến phà trên sông Ninh Cơ. Nơi bao lần tôi cuốc xe đạp từ thành phố về thăm quê, ngồi nghỉ trên bến đá, gió mùa đông bắc thổi ràn rạt trên mặt sông mờ mịt. Quê ngoại nghèo xơ xác hơn, dấu tích bom đạn chiến tranh sót lại nhiều. Lạc Quần từng có bốt đồn Tây đóng thời tạm chiếm. Nhà bà ngoại, nhà cậu tôi chỉ là tường đất, mái rạ thấp lè tè, xung quanh ao chuôm hoang vắng. Bà ngoại rất thương cháu, mỗi lần đi chợ ghé qua lại dúi cho cái bánh đa vừng nóng dòn. Có dịp hè, một mình tôi sang thăm, bà vẫn bắt con gà choai hầm, ép cậu cháu sinh viên còm nhom ăn bồi dưỡng. Bà mất thời chiến tranh phá hoại 1966, khi tôi học nơi sơ tán Hà Bắc xa xôi, không thể về thăm nom và gặp bà lần cuối.
Có lần mấy đứa tôi đi bộ lên chơi phố huyện Hành Thiện, Xuân Trường, nằm ở mom sông Hồng và sông Ninh Cơ, vùng đất học, đất quan nổi tiếng của miền đồng bằng Bắc Bộ. Đây là quê dòng tộc Nguyễn Thế của bà nội tôi (với các nhà Cách mạng tiền bối Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Thế Rục…) cùng dòng họ Đặng nổi tiếng của ông Trường Chinh, Tổng bí thư Đảng thời ấy. Và cũng là nơi bố tôi dạy học trường cấp 2 đầu tiên của huyện nhà thời Pháp thuộc. Phố huyện giờ đây xơ xác, đa phần các gia đình quan lại, nho giáo, nhà giàu đã rời bỏ ra Hà Nội, thành phố Nam Định hoặc vào Nam. Những dong ngõ hun hút vắng vẻ, dãy bàng trút lá bên bờ sông và bến đá, thấp thoáng nhà cổ tường gạch và mái ngói rêu phong… Dĩ vãng của một thời yên bình, vàng son. Rồi cơn lốc thời cuộc đã thay đổi tất cả!
PHẦN 2
Làng quê, một thời yên bình vàng son đã là dĩ vãng! Không chỉ êm ả với “hoa cau rụng trắng ngoài thềm”, những “ngày mùa vui thôn trang, lúa reo trên cánh đồng”, “chiếc cầu tre nhỏ chênh vênh” bóng mẹ về chợ, và nón trắng nghiêng che “ngực mơn mởn cau buồng” thôn nữ…Cơn lốc thời cuộc đã thay đổi tất cả! Một vùng quê xơ xác sau chiến tranh vừa như cơ thể ốm yếu vừa gượng dậy, tan hoang sau cơn bão biển ghê gớm hồi cuối 1955, đã bị một cơn cuồng phong còn khủng khiếp hơn nhiều, ào ào cuốn đi: đó là cuộc CCRĐ long trời lở đất 1956!
Đầu tiên là sự xuất hiện những cán bộ “ba cùng” mặc áo đại cán kaki về “bắt xâu rễ” xa lạ, phần lớn người miền trong, giọng nằng nặng khó nghe, khuôn mặt lành lạnh. Thôn xóm bắt đầu im ắng, ánh mắt ngờ vực, xì xào lo lắng xem ai có vài mẫu ruộng thu tô, hoặc nhà ngói cây mít chuyến này sẽ rơi vào danh sách địa chủ, phú nông. Rồi đám học sinh rồng rắn diễu hành quanh làng, om xòm trống ếch và hô vang khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ cường hào gian ác; nông dân vùng lên!”Ánh đuốc chập chờn trong buổi mít tinh, đám đông rùng rùng phấn khích trước cuộc đổi đời lịch sử. Những người nông dân chân lấm tay bùn chất phác rủ rỉ, vừa mới hôm qua gặp nhau thôi vẫn đon đả chào hỏi, hoặc ngượng nghịu hỏi vay vài bơ gạo. Hôm nay mặt hầm hầm khí thế, ánh mắt thù hận, xông vào quát nạt, lôi xềnh xệch những ông bà địa chủ già run rẩy đáng tuổi cha chú họ đi đấu tố.
Có lần thằng bé tôi ngó lên gian nhà trên, một đám người ngồi ủ rũ tựa vách, hai chân xỏ trong những chiếc gông bằng gỗ khoét lỗ tròn. Thật kinh ngạc nhận ra một vài người họ hàng quen biết: ông Huệ Bí thư Đảng uỷ, ông bác họ tôi Chủ tịch xã thời kháng chiến…Những đêm đấu tố, mấy địa chủ già quỳ mọp trên sân gạch. Đám người hung hăng tố khổ, xỉa xói vào mặt “Thằng, con kia, mày có biết tao là ai không?”; “mày ngồi mát ăn bát vàng, ra giày vào dép”. Khủng khiếp và ấn tượng vẫn còn đến bây giờ, là đi xem bắn địa chủ cường hào. Một phiên toà lập vội vã, đơn sơ, và kết tội nhanh chóng. Họ lôi ông Mậu, ông Nghiễm địa chủ kháng chiến, nghe nói từng ủng hộ nuôi bộ đội ăn nghỉ mỗi khi về làng, ra xử bắn. Mấy tay súng du kích lập cập bắn vung vãi vào người, vào mặt, lên trời. Sau cùng, một cán bộ Cải cách rút sung ngắn ban cho một phát đạn ân huệ vào gáy; óc và máu tung toé đến rợn người. Mấy ông địa chủ già run rẩy bó chiếu, chôn lấp sơ sài ở cái huyệt đào sẵn. Không một tiếng khóc thương, một nén hương cho một kiếp người.
Gia đình tôi cũng bị quy là địa chủ, tất nhiên với dinh cơ to rộng của cha ông để lại; dù ông bà nội tôi, bố mẹ tôi không tham gia bóc lột thu tô. Ông nội tôi mất sớm từ thời trẻ, bố tôi là giáo học sớm thoát li hoạt động Cách mạng, hai anh lớn tôi đi bộ đội. Người ta vận động, o ép chị Tuất con nuôi, từng theo gia đình tản cư vảo Thanh Hoá, đứng ra tố khổ bị gia đình tôi bóc lột. Chị đã từ chối, vì lí do chị được cưu mang no đói bên nhau, được coi như con đẻ, không có gì phải đặt điều vu oan giá hoạ. Ngưòi nông dân chân chất, thật thà là vậy. Sau này chị lấy chồng quê nghèo xóm dưới, mấy chị em tôi vẫn thường thăm hỏi. Căn nhà mái rạ, tường và nền đất nện nâu bóng, bên vườn chè và ao bèo tấm. Bữa cơm quê, thằng con xách giỏ đầy cua đồng về nấu canh rau đay; anh chồng đen đúa chất phác ít nói, cặm cụi xuống ao cất cá mè đãi khách. Tôi nhớ cảnh mẹ tôi bị đẩy ngồi xệp đất, xung quanh quây dây thừng, lẫn trong đám các bà vợ địa chủ có chồng bị đấu tố. Thằng Vòi con bà Y, ở nhờ nhà tôi thời tạm chiếm, hơn tôi gần chục tuổi mà ngồi cùng lớp 1, đọc viết chưa thạo, được làm “cốt cán” của Đội Cải cách, cái mặt tèn tẹt bỗng vênh váo, hùng hổ làm sao. Có lần nó quát mắng, lật tung rổ ốc của bác Kính gái soi mói xem có giấu gì không? Anh Chính, anh họ tôi nghiến răng “mẹ cha thằng Vòi Y, rồi có ngày ông đập vỡ cái mặt khốn nạn của mày!”.Sau này khi sửa sai, nó bỗng lại cum cúp len lét trước những ánh mắt căm tức phỉ nhổ của các gia đình bị quy oan. Nó bỏ làng đi làm thuê ở đâu không rõ. Một hôm tôi vừa bước vào lớp, mấy thằng nhỏ ngồi bên bỗng la lên “chúng mày ơi, thằng này con nhà địa chủ, đừng đứa nào chơi với nó!”.Thằng bé tôi tủi nhục khóc chạy về “mợ ơi, con không đi học nữa đâu!”. Mẹ an ủi tôi “cố mà học con ạ”, và lên gặp thày Huy, một ông giáo già nghiêm nghị. Thầy Huy đăm chiêu, rồi cũng nhắc nhở lũ học sinh quá trớn, không được phân biệt đối xử. Tôi buồn rầu, một mình lặng lẽ ngồi trong lớp nhìn lũ trẻ chơi khăng, chơi đáo, chơi quay…vô tư hò hét.
Năm ấy, bão gió mất mùa, cái đói lan đến khắp vùng quê. Ngày chỉ một bữa cơm độn khoai khô. Bữa còn lại thay bằng rổ khoai luộc, ăn kèm với dưa cải bẹ nén. Thực ra nhà tôi vẫn còn lưng chum thóc. Nhưng phải theo các nhà xung quanh, không dám ăn hai bữa cơm, kẻo lại bị tố cáo là địa chủ giàu ngầm lắm của. Đêm đến xóm làng im ắng, vu vơ tiếng chó sủa, tiếng dân quân tuần tra quát nạt, tiếng chân rón rén và tiếng rì rầm theo dõi các nhà địa chủ liệu có phân tán của cải? Mấy mẹ con run rẩy sợ hãi trong ổ rơm, khi nghe tiếng hô “đả đảo” và lời tố cáo bố tôi (đảng viên thời Tổng khởi nghĩa, Chủ tịch xã, Chủ tịch huyện nhà đầu tiên, trúng cử đại biểu Quốc hội khoá I 1946-1960, hiện là cán bộ UB Tỉnh) là “trí thức Quốc dân đảng phản động”(!). Họ gửi giấy đòi bắt bố tôi, hiện đang đi công tác Cải cách ở Liên Khu 3, về làng đấu tố, nhưng không được trên chấp thuậ, dựa lí do Hiến pháp 1946 có quy định là bắt Đại biểu QH phải được sự đồng ý của UBTV Quốc Hội. Tết Bính Thân 1956, giao thừa im ắng, không có tiếng chuông từ đường và mùi hương trầm ngan ngát. Tất cả chìm trong u uất và sợ hãi. Mẹ tôi chỉ nấu nồi cơm nếp đỗ đen, hầm đôi chim bồ câu nhà nuôi để âm thầm cúng tổ tiên. Buổi tối khẽ gọi chị Nhung con gái bác Trung, nhà đang bị phong toả tài sản không có Tết, cho đĩa cơm nếp và sẻ cho bát chim hầm.
Cũng may mà đến Giai đoạn 2 Cải cách, gia đình tôi sớm được xuống thành phần, đổi sang thành phần Tiểu tư sản Viên chức. Nếu không chắc sẽ lâm vào cảnh bị đuổi khỏi nhà, chỉ được mang theo mấy bộ quần áo cũ và mấy cái bát mẻ, gia sản bị tịch thu chia cho bần cố nông. Đến giờ nghĩ lại, tôi vẫn không khỏi rùng mình: bố tôi mà phải về xã, chắc chắn sẽ bị đấu tố và xử bắn, số phận nghiệt ngã không khác gì ông Tư (em ruột ông nội tôi) địa chủ kháng chiến ở dưới chợ Bể. Mấy anh em tôi chắc sẽ không được đi học, đi làm cơ quan. Tương lai nào dành mấy anh em học trò, để có được cuộc sống như bây giờ? Hay cũng như các anh Tiết, Chính, Tám, con nhà các bác họ, đẹp đẽ sáng sủa vậy mà cả đời vác cưa xẻ làm thuê, bàn tay chai sạn và khuôn mặt cháy nắng. Như chị Nhung, chị Liên xinh xắn trắng trẻo, hẩm hiu bị gả bán sớm, tuổi xế chiều vẫn đội muối kiếm tiền nuôi con ăn học?
Những ngày sôi sục, sóng gió rồi cũng cũng qua đi, thôn xóm lại trở lại nhịp sống bình dị. Nhưng nỗi đau mãi sẽ ám ảnh. Đoàn cán bộ Sửa sai về đóng ở nhà tôi. Lãnh đạo Đoàn là bác Phi, nguyên Bí thư huyện ủy Trực Ninh, con Chánh tổng làng Hội Khê. Bác từng bị bắt và quy kết địa chủ cường hào, bị gông cổ tra khảo, uất ức đến nỗi phải lấy lưỡi lam rạch bụng tự sát, may mà không chết. Chú Hảo em ruột cũng là cán bộ đảng viên phải chui lủi lẩn trốn hàng tháng ngoài bãi tha ma Hậu đồng. Sau này bác Phi lại trở thành bố vợ anh hai tôi; hai gia đình thông gia thân thiết. Bác Phi người hiền lành và bao dung, có lần tâm sự với bố tôi: “Bác ạ, nghĩ cũng đau lắm! Nhưng thời cuộc là vậy, làm Cách mạng không tránh khỏi mất mát, đau thương. CCRĐ là thực hiện mục tiêu cao cả “phản phong” mà Đảng ta đề ra từ đầu, mang lại ruộng đất cho dân cày. Đó là cái được lớn nhất! Chỉ tiếc là hơi quá đà, học hỏi ở nơi xa lạ, áp dụng đấu tranh giai cấp không phù hợp với hoàn cảnh nước mình, đa số sĩ nông công thương đi theo Cách mạng, gây ra nhiều tổn thất! Cũng không thể trách cứ bà con bần cố, nghèo khổ, chân chất và có phần ít hiểu biết, ấu trĩ, được kích động căm thù địa chủ, vùng lên trong cuộc đổi đời này!” Tết Đinh Dậu 1957, là Tết xum họp đông đủ nhất của gia đình tôi, bố và 2 anh đi bộ đội về ăn Tết, sau bao năm kháng chiến xa cách, qua cơn hoạn nạn, và sau vụ mùa tháng Mười bội thu chưa từng có.
Đám cháy lớn trong buổi tối mùa đông gió heo may cuối năm, ngọn lửa ngùn ngụt một góc trời thiêu rụi ngôi nhà gỗ lim lợp mái bổi 5 gian rộng của bà Ký giữa xóm, thật kinh khủng. Hình như điềm báo lại bắt đầu nhen lên những đám cháy mới của phía chân trời ẩn chứa những ráng mây chiều đỏ xẫm? Rồi cơn bão mới lại dồn dập, chao đảo cuốn đi nếp sống ngàn đời của nông thôn vốn êm ả, hai sương một nắng, đùm bọc tình nghĩa này!

Vùng quê yên tĩnh, liên tiếp được mùa “trăng lên trăng càng trong, sáng cảnh ngày mùa” của tổ đổi công nhộn nhịp. Trong thôn rộn rã tiếng cười tiếng hát đêm sinh hoạt văn nghệ thanh thiếu niên. Mầu áo nâu non xen lẫn áo sơ mi trắng, áo xanh trứng sáo, và những ánh mắt lấp lánh. Thế rồi, lại rậm rịch, xôn xao trong ngõ, ngoài xóm về Hợp tác xã nông nghiệp, xoá bỏ tư hữu ruộng đất, công cụ trâu bò, cày bừa cuốc xẻng…Tất cả làm ăn chung, chia theo công điểm; rồi mai này tiến lên nông trang tập thể “chiêm mùa cờ đỏ ven đê, sớm trưa tiếng trống đi về trong thôn”. Có khi còn được ăn tập trung nhà ăn công xã không mất tiền như bên Trung Quốc. Máy cày, máy bừa, máy gặt chạy băng băng trên những cánh đồng bát ngát! Người nông dân vừa rơm rớm nước mắt nhận ruộng được chia, con trâu quả thực, lại được vận động đóng góp và giao cho Hợp tác xã. Cái cảnh uể oải đi làm, sáng các cuốc cào đi, tối vác về. Chưa kịp rửa chân tay, nuốt vội lưng cơm độn khoai, đã lại nghe kẻng báo sang nhà đội trưởng bình công chia điểm, cãi vã đến khuya. Để sau vụ gặt, trừ đầu trừ đuôi các khoản thuế má, đóng góp công thủy lợi, trồng cây, y tế, kế hoạch hoá gia đình…một công lao động nông nghiệp 10 điểm chỉ còn được 2 lạng thóc, ăn không đủ no! Tiếng xì xầm cán bộ Hợp tác xã xây nhà, lát sân, ăn uống rượu chè tiếp khách…Hình ảnh cán bộ huyện, xã quần áo kaki, mũ cối, dắt xe đạp Thống Nhất mới coong, líp kêu rè rè, vai đeo xà cột và lủng lẳng chiếc đài XingMao bên hông, là niềm ao ước của bao gia đình xã viên nghèo. Trong khi đó đa số người dân áo vá, một năm ba mét vải, mà còn lâu mới được mua phân phối. Cô nào được làm thư kí Đội, hoặc bở nhất là nhân viên Cửa hàng HTX mua bán thì hồng hào tươi tốt hẳn lên; đôi má hây hây chín mọng và ánh mắt đưa đảy!
Rồi cuộc chiến tranh Chống Mỹ cứu nước ác liệt lan rộng. Vùng quê đêm ngày náo động bởi tiếng gầm rú máy bay Mỹ Thần sấm, Con ma…bắn phá thành phố Nam Định, lúc quay ra biển trút bừa bãi bom đạn. Một bác xã đội trưởng trúng bom. Thanh niên choai choai cũng lên đường đi B, vô Nam chiến đấu . Có những đôi thanh niên chưa kịp cưới đã vội cuộc chia li màu đỏ: anh Hữu hi sinh ở tuổi 20 và chị Hồng cán bộ phụ nữ xã; anh Khải con bác Kính tưởng mất tích và cô giáo Cúc nuôi dạy trẻ chờ đợi mãi đến già không lấy chồng. Sau miền Nam giải phóng, chưa kịp bình yên lại chiến tranh biên giới Tây Nam, chiến tranh biên giới phía Bắc…Chưa thoát nghèo “con trâu đi trước cái cày đi sau”, đã vội vã tiến lên làm ăn lớn! Có lần đạp xe từ thành phố về quê, tôi gặp ở huyện Nam Ninh mấy chục máy kéo sơn đỏ xếp hàng, trống dong cờ mở thí điểm cơ giới hoá nông nghiệp toàn quốc. Phen này san hết bờ vùng bờ thửa lắt nhắt nghìn đời tư hữu làm ăn nhỏ. Để rồi “trâu cày ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà” tốn kém, không phù hợp về chi phí xăng dầu; và nhất là ruộng không giữ được nước, năng suất sa sút trông thấy. May mà cái cảnh “làng ta di động nên có đất mình cày” di dân lên đồi núi, xoá bỏ làng xóm ngàn đời không gian sống và tâm linh, để tăng diện tích đất trồng của mấy ông nhiệt tình thái quá cùng ấu trĩ “mo cơm quả cà và tấm lòng” Quỳnh Lưu – Nghệ Tĩnh không lan rộng đến quê mình!
Nông thôn thời bao cấp có gì đổi thay, hay vẫn là “ông lão dong trâu đi bừa, là con ông lão ngày xưa đi cày?”. Bao năm Hợp tác xã, làng quê vẫn nghèo, lam lũ với mái rạ gày, áo nâu áo xanh bộ đội bạc màu…Thậm chí có mùa gặt, lúa chín đầy đồng, sắp có mưa giông, mà người ta vẫn thong thả ngồi rít điếu cày, nhắp chén chè xanh, chẳng có gì phải vội vã? Mấy dãy chuồng trại chăn nuôi dột nát, đàn lợn teo tóp dần. Vậy mà nếu có đoàn kiểm tra, tham quan lại được dồn mướn lợn nhà dân béo nung núc, được chăm sóc kĩ và cả do ăn cám pha bã ruợu nấu lậu của vùng quê Kiên Lao; lợn lạ chuồng cứ réo eng éc phá phách. Trạm xá ven sông rách nát của chị dâu tôi lèo tèo vài ba lọ thuốc cảm cúm, đau bụng, và vài chai sirô chữa ho tự chế bằng lá thuốc Nam. Kháng sinh quý giá thì mua chui bán lủi của những người có con em đi Đông Âu gửi về. Hài hước nhất là những đợt xã ra quân bắt các ông chồng, bà vợ đi triệt sản, hoặc đặt vòng thực hiện KHHGĐ. Cán bộ y tế xã và dân quân mang võng và cả súng ống đến từng nhà thuyết phục, cưỡng chế những người vi phạm đẻ quá 2 con. Liên tưởng đến “Tinh thần thể dục” bi hài của Nguyễn Công Hoan ngày nào! Có lần gặp cô Đoan, xưa cùng học lớp 1, đang làm Chủ tịch xã, trông già dặn nhiều so với tuổi, cô nói với tôi: “Ở địa phương, nhiều chuyện phức tạp, không theo ý muốn, dù nhiều cán bộ đảng viên đã cố gắng, tâm huyết. Hình như có điều gì không ổn, có khoảng cách giữa Quan hệ sản xuất tập thể tiên tiến, và Lực lượng sản xuất lạc hậu, tư duy tư hữu bao đời của người nông dân. Cung cách làm ăn tập thể bộc lộ quá nhiều nhược điểm, vá víu chỗ nọ toạc chỗ kia. Dù sao cũng phải công bằng ghi nhận, nếu không có Hợp tác xã nông nghiệp, thì hậu phương miền Bắc không thể dốc sức chi viện sức người, sức của cho công cuộc Giải phóng miền Nam được!”.
Vào những năm đầu đổi mới 1986, đọc bút kí “Đi trên đường làng” của Hồ Trung Tú trên báo Văn Nghệ, mới giật mình vỡ lẽ: ông lão nông mếu máo khóc “ngày xưa tôi đi làm mướn cho địa chủ thu tô còn được ít thóc, bây giờ làm cho hợp tác chỉ ăn công điểm!?” Một thứ làm thuê cha chung không ai khóc; khi người nông dân chỉ làm chủ tập thể về hình thức, trở thành kẻ làm thuê nghèo đói trên chính mảnh ruộng màu mỡ của mình! Sau này bộ phim truyền hình nhiều tập “Bí thư Tỉnh uỷ” của Đạo diến Trần Quốc Trọng đã tái hiện khá chân thực nông thôn một thời làm ăn hợp tác, vừa mới qua mà tưởng như xa lắm! Ông Kim Ngọc, một cán bộ gốc nông dân, hiểu dân vì dân, sớm đổi mới tư duy, dám làm dám chịu, động chạm đến những vấn đề cốt lõi là sở hữu đất đai, tư hữu công cụ sản xuất ở nông thôn; mà không sợ mất cái ghế lãnh đạo của mình. Con người như vậy sao hiếm quá. Ông là người khơi nguồn cho Nghị quyết TW Khoán 10, cởi trói cho nông nghiệp, để Đổi mới nông thôn thoát cảnh đói nghèo, bước vào con đường vươn lên làm giàu chính chính đáng, Ông chưa được xây tượng đài, nhưng xứng đáng là tượng đài trong lòng người nông dân và nông nghiệp nước nhà!
Bây giờ, sau bao năm vật đổi sao rời, đến thời đổi mới, làng quê tôi đã khác xưa nhiều lắm. Có nhiều thay đổi đáng mừng, nhiều cái được, cái mất. bên cạnh bao điều suy ngẫm! Đường nhựa thênh thang quanh làng; xe tải, xe khách, xe máy nườm nượp; nhà dân đua chen bám lấy mặt đường buôn bán như một dãy phố. Nghề nông không còn là thu nhập chính; những ruộng lúa tám thơm, dự hương thơm ngát ngày nào đã biến mất, thay vì các loại lúa cho năng suất cao. Buôn bán vặt, chạy chợ, làm miến dong, nghề mộc, xẻ gỗ, nghề đóng tàu thuyền sắt hay ximăng lưới thép, nghề cơ khí…nở rộ. Thanh niên làng bỏ lên thành phố làm đủ nghề kiếm sống, vào Nam mua, thuê đất trồng cà-phê, nuôi tôm. Có khi còn chạy vạy méo mặt để nộp tiền thủ tục đi lao động xuất khẩu Hàn Quốc, Libi, Cộng hòa Sec…Phụ nữ bỏ chồng con “nàng gửi con về nương xóm cũ” sang Đài Loan làm thân phận ôsin. Những nhà gỗ cổ xưa, mái ngói ta, những vườn cây bờ ao… mất dần; thay vì là những căn nhà xây 2, 3 tầng bêtông nhôm kính trang trí đủ hình đủ kiểu kệch cỡm. Trong làng đủ thứ dịch vụ làm tóc, may vá, sửa xe, quán karaôkê, quán nhậu bia bọt…Đám cưới cô dâu chú rể cũng xúng xính váy áo, complê, khuôn mặt cứng đơ loè loẹt son phấn. Đám choai choai nhảy múa uốn éo theo nhạc xập xình chát chúa. Cỗ cưới đủ món đặt dịch vụ theo kiểu thành phố. Phong bì tới tấp, hoặc đưa tiền mặt trực tiếp ghi sổ “ăn cỗ trả tiền”. Đám ma lại phức tạp nhiêu khê hơn, bao hủ tục cũ tưởng đã loại bỏ, nay lại quay trở lại: kèn trống, khóc thuê, nhà chùa tụng kinh, lễ báo hiếu…Góc rạp, bên thềm vài đám đánh bạc mê mẩn sát phạt suốt đêm. Nhớ bác Tắc, Bí thư chi bộ, Hiệu trưởng Trường cấp 2, Trưởng ban lễ tang nói với tôi trong đám tang mợ tôi “chú cứ coi như là văn nghệ ở làng quê thôi!”. Có lẽ vậy, cứ dịp nhà có đám, là ngày đầu dựng rạp cũng ngả muơi, hai mươi mâm, dịp để bà con ngồi chơi đến khuya. Ngày chính ngót ngét trăm mâm mời cả xóm. Ngày thứ ba dỡ rạp, cũng mươi mâm cám ơn, lại mặt. Chỉ khổ cho những người nghèo, những người đồng lương hưu ít ỏi, những cụ già ốm đau không đủ tiền thuốc thang, tháng cuối năm liên tục “ăn cỗ giá cao” đám ma, sang áo, tân gia…Phong trào học hành, con cái nông dân đỗ đại học nhiều hơn xưa, với trông đợi đó là con đường lập thân thoát nghèo, cũng là niềm tự hào cho gia đình ngành tộc. Đường xá, nhà cửa, trụ sở khang trang mọc lên. Nhưng giàu nghèo chênh lệch, nạn cho vay nặng lãi, cờ bạc lô đề, lệ làng, hủ tục mê tín, chạy đua “con gà tức nhau tiếng gáy” xây mồ mả, đình chùa, nhà thờ, từ đường nguy nga…lại xuất hiện và ngày càng nở rộ.
Nông thôn sau những cuộc thử nghiệm tập thể hoá vĩ đại, lại trở về với sự manh mún tự do phát triển? Khi các giá trị truyền thống bị nứt rạn, đảo lộn một thời, nay lại bị cuốn phăng đi trong nền kinh tế thị trường bất kham và mới mẻ? Một thời loay hoay tìm lối ra, “trồng cây gì, nuôi con gì”, để nông dân thoát nghèo, để trở thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa xuất khẩu, nông nghiệp xanh, bền vững, để bộ mặt nông thôn thực sự thay đổi, bên cạnh đa dạng hóa ngành nghề sản xuất thủ công, và công nghiệp hóa địa phương. Cần lắm những bước đi đột phá, có quy hoạch chung, có sự liên kết hiệu quả giữa nông dân, nhà khoa học, doanh nghiệp và sự hỗ trợ của nhà nước. Có lẽ vẫn còn là chuyện dài dài…
“Quá nửa đời người, tôi lại về úp mặt vào sông quê, ôi con sông dạt dào như lòng mẹ…”. Vậy đó, ở cái tuổi xế chiều, rời xa quê lên thành phố học và lập nghiệp đã hơn nửa thế kỷ, với tôi quê hương chỉ còn là hoài niệm. Con sông đã đổi dòng; cảnh vật, con người cũng đổi thay. Đâu còn làng quê với con sông hiền hoà quanh co ôm lấy con đường đất nâu mịn màng; những mái rạ thơm khói lam chiều…Bây giờ là một dòng nước đen ô nhiễm, cạn kiệt; chỉ vào mùa mưa lũ, cống Trà Thượng mở, nước phù sa mới ngập tràn con đường nhựa và hai bên bờ sông kè đá. Nhiêù bạn nhỏ thủa thiếu thời cùng chơi ô ăn quan, đánh khăng, đá bóng, tắm sông…cũng đã mất cả rồi. Phố quê san sát nhà bêtông nhôm kính; tiếng nhạc xập xình, ẽo ợt; bọn trẻ dán mắt vào màn hình chơi điện tử, chát chít. Cầu bê tông Lạc Quần vắt qua sông Ninh, và con đường nhựa thênh thênh sát rìa làng, chạy thẳng đến Hành Thiện, quê ông Trường Chinh. Bến phà xưa, nơi tôi bao lần chờ đò, chờ phà, ngồi trên bến đá, ngắm mặt sông sương chiều buông mênh mang, bên sông ánh lửa le lói phía làng quê xa mờ, đã là dĩ vãng.
Tôi hay nghe lại câu hát da diết về quê hương tuổi thơ “nhưng trong trái tim, không bao giờ quên, kỉ niệm yêu thương, cho tôi ngày ấy, biết đâu tìm lại, biết đâu mà tìm?” Mỗi lần về quê, tôi thích một mình lang thang chậm rãi. Không ồn ào hoà nhập vào dòng người dòng xe lễ hội. Chẳng ấn tượng nhiều với các công trình chùa chiền, nhà thờ, nhà tầng mọc lên, xanh đỏ hoa mắt. Chỉ để lắng tìm trong tiếng xôn xao của cơn gió chiều man mác từ biển thổi về; tiếng rì rào đất thở thuỷ triều lên trên bãi phù sa mượt mà. Tìm lại cảm xúc bồi hồi như đứa trẻ ngóng mẹ về chợ năm nào. Với tôi, quê hương không chỉ là là những kỉ niệm xao lòng của một thời thơ bé, là niềm tự hào nhâm nhi “chùm khế ngọt”. Quê hương còn là những những tháng ngày giông bão; những cuộc đời lầm lũi, quẩn quanh trong cái “ao làng” nhỏ bé của lề thói, nếp sống tự bao đời để lại; cũng như đang thức dậy mãnh liệt khát khao đổi đời của người nông dân mong muốn làm giàu trên chính mảnh đất này!
HẾT
Đinh Hiểu Khác 2013