24 bài thơ của cụ tú Trần Tế Xương, kèm theo những bức ảnh Nam Định xưa cùng thời để minh họa.
Qua những áng thơ này, khung cảnh Thành Nam vào thời thuộc địa nửa phong kiến hiện lên thật sinh động nhưng cũng không kém phần chua chát. Và những hình ảnh quý giá được chụp trong cùng thời kỳ cũng góp phần phác họa cho bức tranh ấy.

(ảnh: sông Vị khoảng năm 1900)

Chú thích:
“đất nhiều quan”: Đất này có nhiều người đỗ đạt cao làm quan to như tiến sĩ Vũ Công Độ, phó bảng Trần Doãn Đạt, tam nguyên Trần Bích San.
“phố nửa làng”: Khi Pháp mở cảng Hải Phòng và không dùng Nam Định làm cửa khẩu nữa thì đoạn sông Vị Hoàng lâu ngày không được nạo vét bị phù sa lấp dần thành bãi, người ta lợi dụng xây dựng nhà cửa để ở, sau thành phố xá đông đúc.
“… bác xã bàn”: Tình trạng hành chính ngưng trệ tiêu điều của Vị Hoàng lúc đó.
(ảnh: 1 đám tang bên bờ sông Vị năm 1885)

(ảnh: sông Vị năm 1884, đoạn ngã tư Bến Ngự – Hàng Sắt)

(ảnh: tàu thuyền buôn bán trên sông Vị cuối thế kỷ XIX)

(ảnh: phố Hàng Sắt đoạn gần đền Triều Châu, năm 1906)

Chú thích:
“giọng Ngô”: giọng Hoa kiều
(ảnh: phố Hàng Sắt năm 1906)

Chú thích:
“Thành”: là viên phòng thành, ở đây chỉ ông Thành Pháo
“Đốc”: là viên Đốc học, ở đây ám chỉ ông Đốc Kinh
“cô Bố”: là vợ của quan Bố Chính Cao
“chú Hàn”: tức Hàn Tịch.
(ảnh: phố Hàng Song khoảng năm 1900)

(ảnh: trường thi Nam Định khoa Tân Mão 1891)

Chú thích:
“cô”: chỉ vợ tác giả
“giải ngạch”: số lượng thí sinh trúng tuyển
“Ú ớ u ơ ngọn bút chì!”: Từ năm 1897, kỳ thứ tư “quốc ngữ” viết các chữ như a, ă, â…; nhà nho dùng bút chì vẽ các chữ này, vừa buồn cười, vừa tủi nhục
(ảnh: trường thi Nam Định khoa Tân Mão 1891)

(ảnh: Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu 1897)

(ảnh: Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu 1897, các tân khoa đang được gọi lên vái tạ)

(ảnh: trường thi Hương Nam Định khoa Bính Ngọ 1906, các sĩ tử đang xem kết quả)

(ảnh: trường thi Hương Nam Định khoa Bính Ngọ 1906, các sĩ tử đang xem kết quả, chưa có ảnh khoa thi năm 1903 nên mượn tạm)

(ảnh: trường thi Hương Nam Định khoa Bính Ngọ 1906, các sĩ tử thi trượt khăn gói ra về)

Chú thích:
“Bác này”: tác giả tự giễu mình
“thái vô tích”: hoàn toàn vô tích sự
(ảnh: Hotel de France ở ngã tư Cửa Đông đầu thế kỷ XX)

Chú thích:
Câu 2 có bản chép “Giày chân anh dận, ô tay anh cầm”.
(ảnh: đền Hội Quảng trên phố Khách năm 1897, chưa có ảnh phố Hàng Thao cùng thời nên mượn tạm)

(ảnh: các cô đầu thành Nam đang biểu diễn trong yến tiệc mừng Quốc khánh Pháp năm 1884)

(ảnh: căn nhà trên phố Hàng Nâu xưa kia của nhà thơ Tú Xương)

(ảnh: phố Hàng Sắt đoạn gần đền Triều Châu, cuối thế kỷ XIX)

(ảnh: 1 nhà tù ở Nam Định năm 1884)

(ảnh: những người tù ở Nam Định năm 1884)

(ảnh: vọng gác (thú lâu) cửa Đông thành cổ Nam Định bị đại bác của Pháp bắn phá, ảnh năm 1884)

(ảnh: 1 góc đình (hay chùa) Vị Xuyên cuối thế kỷ XIX)

(ảnh: bên bờ sông Vị năm 1885, đoạn Bến Ngự, phía trước nhà Công sứ vào thời điểm đó. Bên trái ảnh là viên Công sứ)
Biên tập: Tâm Minh